‘Hồi ấy, bà Ma-ri-a vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa. Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét. Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng : "Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc.”’
(Lc: 1, 39-42)
Khoảng giữa năm 1999, tôi đã có một cuộc đi thăm viếng hết sức đặc biệt, và cuộc thăm viếng đó đã mở ra cho tôi nhiều suy nghĩ. Tại sao tôi lại gọi đó là cuộc thăm viếng đặc biệt? Thời gian đó tôi rất ít ra khỏi nhà, có đi đâu cũng chỉ là đi kiếm bác sĩ mà thôi. Nhưng lần đó tôi ra khỏi nhà là để đi thăm ông anh rể, chồng của chị Hai tôi. Anh ấy vừa trải qua một ca phẫu thuật, bác sĩ đã cắt đi của anh ấy 3 phần tư cái dạ dày. Trước đó, bác sĩ đã gọi riêng chị Hai tôi ra, để báo cho chị biết, anh ấy có một khối u ác tính trong bao tử. Chúng tôi đã bàn với nhau là sẽ không để cho anh ấy biết. Vì vậy, anh rể tôi đinh ninh cái bao tử của anh có khối u lành tính. Tôi còn nhớ như in buổi chiều hôm đó, tôi đến bệnh viện Chợ Rẫy vào đúng lúc nó bị cúp điện. Người nhà dắt tôi đi thở dài ngao ngán trước cái viễn cảnh phải leo bộ lên sáu tầng lầu, họ cứ chần chừ ở dưới chân thang và lo ngại cho tôi. Nhưng tôi quyết tâm hối thúc họ dắt tôi lên, chứ không chịu ngồi chờ thang máy.
Lên gần hết các bậc thang, thì khắp nơi đã chan hòa ánh sáng trở lại. Hai chân của tôi bình thường đi lại đã khó khăn, nay lại phải leo lên nhiều bậc thang như vậy, cộng thêm sức khỏe của tôi lúc đó rất xấu, vì thế lên tới được cửa phòng bệnh của anh rể là cả một vấn đề không nhỏ cho tôi. Không hiểu sức mạnh nào đã giúp tôi lên tới được tầng lầu thứ sáu, chỉ biết vừa leo thang tôi vừa nhớ đến ngắm thứ hai mùa vui, Đức Mẹ đi viếng bà thánh I-sa-ve cũng phải leo núi... nghĩ đến chặng đường xa của Đức Mẹ tôi quên mất chuyện leo thang của tôi chăng? Chị Hai tôi kể, vừa thấy tôi bước vào phòng, anh rể tôi ngóc đầu dậy, vẻ mặt hết sức ngạc nhiên và vui mừng. Bởi anh sống chung trong gia đình tôi, anh biết tôi mù lòa chẳng chịu đi đâu. Có lẽ không vướng mấy dây rợ luộm thuộm quanh người, anh ấy đã chạy ra đón tôi rồi. Tôi đến bên giường anh, vừa mở miệng hỏi “Anh đã bớt đau chưa?”, thì anh đã đưa bàn tay còn rảnh của anh ra nắm chặt lấy tay tôi, giọng anh hết sức xúc động:
-Thủy đi thăm anh chi cho cực vậy!
Tôi cười đáp lời anh:
-Em đi thăm anh cho anh mau lành bệnh, chóng được về nhà.
Đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ cảm giác bị bàn tay anh xiết mạnh, đó là cả một biểu hiện mừng vui và xúc động trào dâng, vì anh hiểu tôi phải khó khăn thế nào mới vượt qua được bao trở ngại để lên thăm anh. Chị Hai tôi còn nói, mặt anh lúc ấy đỏ rực lên, tôi nghĩ đó là biểu hiện của sự vui mừng hạnh phúc vì được thăm viếng một cách đặc biệt.
Kể từ sau chuyến đi thăm ấy, tôi ý thức được rằng, việc một người khuyết tật đi thăm viếng một ai đó nó sẽ có tác dụng lớn hơn việc đi thăm viếng của một người bình thường. Hôm nay, đọc lại đoạn Tin Mừng trên đây, tôi lại có thêm suy nghĩ rằng, Đức Mẹ đang trong thời kỳ mang thai cũng gặp rất nhiều trở ngại, thế mà Đức Mẹ cũng đã rất vội vã để đi thăm cho được bà chị họ, vì Mẹ hiểu được nỗi khó khăn còn lớn hơn của bà chị họ mình. Đức Mẹ đi thăm chị họ đã mang lại cho chị họ một niềm vui, nhưng niềm vui còn lớn hơn nữa là Đức Mẹ đã mang Chúa đến cho chị họ của mình. Tôi cũng vậy, với những trở ngại của tôi, khi đi thăm ai đó là mang một niềm vui đến cho họ, và khi tôi ý thức được rằng tôi mang Chúa đến cho người mà tôi muốn viếng thăm thì niềm vui sẽ còn nhân lên gấp bội... và như thế, những trở ngại của tôi cứ nhỏ dần nhỏ dần, cho đến bây giờ đối với tôi nó là con số zero, bạn ạ!
Mẹ Maria yêu quý! Mẹ đã nêu gương cho chúng con trong việc quan tâm yêu thương người khác, xin Mẹ hãy hun đúc tình yêu trong chúng con, và giúp chúng con mang Chúa đến với mọi người sống chung quanh chúng con luôn, Mẹ nhé!
Thứ Bảy, 31 tháng 5, 2014
Thứ Sáu, 30 tháng 5, 2014
CỨ NÓI ĐI, ĐỪNG LÀM THINH!
‘Một đêm, Chúa bảo ông Phao-lô trong một thị kiến : "Đừng sợ ! Cứ nói đi, đừng làm thinh, vì Thầy ở với anh ; không ai tra tay hại anh được, vì Thầy có một dân đông đảo trong thành này."’
(Trích sách Tông-đồ Công Vụ: 18, 9-10)
Lời trên đây Chúa nói với thánh Phao-lô Tông-đồ, phải chăng Người cũng đang nói với tôi? “Thủy ơi, đừng sợ! Cứ nói đi, đừng làm thinh, vì Thầy ở với con...” Thánh Phao-lô ngày xưa, sau khi ngã ngựa và được Chúa soi chiếu, ngài đã trở nên một vị Tông-đồ đầy nhiệt huyết đi rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại. Còn tôi, sau bao việc kỳ diệu Chúa đã làm cho tôi, tôi đã trở nên như thế nào?
Những năm tháng gần đây, tôi đã mạnh dạn làm chứng nhân cho Chúa, trước mặt cả những Ki-tô hữu lẫn những người không Ki-tô. Thế nhưng, có nhiều lúc tôi vẫn còn dè dặt. Tôi sợ người ta cười tôi nói khoác, tôi sợ người ta không mấy tin, tôi sợ những người ngoại đạo cho rằng tôi dụ dỗ họ... Nghĩa là, tôi sợ đủ thứ! Bởi thực tế đã xảy ra, một người mù Phật giáo được tôi rủ đi chơi Nha Trang cùng Huynh đoàn khuyết tật Ki-tô đã khước từ, với lý do cô ta sợ tôi rủ vào nhà thờ. Sau này, khi hiểu ra rằng tôi rủ cô đi chỉ vì muốn đem lại cho cô niềm vui chứ không có mục đích nào khác, cô ta cứ tiếc rẻ mãi. Một lần nọ, khi nghe tôi nói rằng, bây giờ tôi cảm thấy cuộc sống của mình rất tốt, tốt hơn cả trước kia tôi còn sáng mắt... người ta hỏi tôi rằng: “Có thật là chị vui như chị nói không? Hay là chị nói thế để tự lừa dối mình?”... Đấy là những phản ứng từ phía người nghe, bản thân tôi có tật nói nhiều, không nói thì thôi đã nói thì lại nói thiên thu bất tận, cái tật này tôi đã biết mà lại không sửa được. Vì thế, nhiều khi tôi đã nói chuyện Kinh thánh với người ngoại đạo cả một hai tiếng đồng hồ, rồi khi nhận ra mình nói quá nhiều thì lại hóa ra ngại! Hôm nay, Chúa nói với tôi: “Đừng sợ, cứ nói đi, đừng làm thinh, vì Thầy ở với con...”, tôi cảm thấy mình cần xét lại chính mình. Có thật là những khi tôi loan báo Tin Mừng, tôi đã hoàn toàn vì Chúa, hay là tôi muốn làm nổi trội “cái tôi” của mình? Nếu như tôi hoàn toàn nói những gì Chúa muốn, chứ không phải là nói những điều mình muốn, thì tôi chẳng có gì phải áy náy và e ngại cả. Vâng, nếu như tôi luôn nhớ được điều này, “Thầy ở với con”, thì tôi sẽ chỉ nói những gì Thầy muốn nói, và tôi sẽ không sợ gì mà phải làm thinh. Vả chăng, có bị ai cười, ai nghi ngờ, ai bực bội gì, mà vì Chúa thì tôi cũng vẫn sẽ nói. Tôi chưa đến nỗi bị ai bắt bớ, đánh đập như các Tông-đồ ngày xưa, mà tôi lại đã chùn bước, thì còn nói gì đến “tử vì đạo”?
Lạy Chúa! Xin cho con trở nên mạnh dạn, để con hăng say làm chứng nhân cho Chúa trước mặt mọi người. Xin cho con có can đảm, mà nói về Chúa cho những ai còn chưa biết Chúa, để họ sẽ được hưởng niềm vui đích thực, là niềm vui có Chúa trong đời. Xin cho con luôn ý thức được rằng, tất cả những gì con nói về Chúa là để tôn vinh Chúa, và chúc tụng Chúa mà thôi! Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời. A-men
(Trích sách Tông-đồ Công Vụ: 18, 9-10)
Lời trên đây Chúa nói với thánh Phao-lô Tông-đồ, phải chăng Người cũng đang nói với tôi? “Thủy ơi, đừng sợ! Cứ nói đi, đừng làm thinh, vì Thầy ở với con...” Thánh Phao-lô ngày xưa, sau khi ngã ngựa và được Chúa soi chiếu, ngài đã trở nên một vị Tông-đồ đầy nhiệt huyết đi rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại. Còn tôi, sau bao việc kỳ diệu Chúa đã làm cho tôi, tôi đã trở nên như thế nào?
Những năm tháng gần đây, tôi đã mạnh dạn làm chứng nhân cho Chúa, trước mặt cả những Ki-tô hữu lẫn những người không Ki-tô. Thế nhưng, có nhiều lúc tôi vẫn còn dè dặt. Tôi sợ người ta cười tôi nói khoác, tôi sợ người ta không mấy tin, tôi sợ những người ngoại đạo cho rằng tôi dụ dỗ họ... Nghĩa là, tôi sợ đủ thứ! Bởi thực tế đã xảy ra, một người mù Phật giáo được tôi rủ đi chơi Nha Trang cùng Huynh đoàn khuyết tật Ki-tô đã khước từ, với lý do cô ta sợ tôi rủ vào nhà thờ. Sau này, khi hiểu ra rằng tôi rủ cô đi chỉ vì muốn đem lại cho cô niềm vui chứ không có mục đích nào khác, cô ta cứ tiếc rẻ mãi. Một lần nọ, khi nghe tôi nói rằng, bây giờ tôi cảm thấy cuộc sống của mình rất tốt, tốt hơn cả trước kia tôi còn sáng mắt... người ta hỏi tôi rằng: “Có thật là chị vui như chị nói không? Hay là chị nói thế để tự lừa dối mình?”... Đấy là những phản ứng từ phía người nghe, bản thân tôi có tật nói nhiều, không nói thì thôi đã nói thì lại nói thiên thu bất tận, cái tật này tôi đã biết mà lại không sửa được. Vì thế, nhiều khi tôi đã nói chuyện Kinh thánh với người ngoại đạo cả một hai tiếng đồng hồ, rồi khi nhận ra mình nói quá nhiều thì lại hóa ra ngại! Hôm nay, Chúa nói với tôi: “Đừng sợ, cứ nói đi, đừng làm thinh, vì Thầy ở với con...”, tôi cảm thấy mình cần xét lại chính mình. Có thật là những khi tôi loan báo Tin Mừng, tôi đã hoàn toàn vì Chúa, hay là tôi muốn làm nổi trội “cái tôi” của mình? Nếu như tôi hoàn toàn nói những gì Chúa muốn, chứ không phải là nói những điều mình muốn, thì tôi chẳng có gì phải áy náy và e ngại cả. Vâng, nếu như tôi luôn nhớ được điều này, “Thầy ở với con”, thì tôi sẽ chỉ nói những gì Thầy muốn nói, và tôi sẽ không sợ gì mà phải làm thinh. Vả chăng, có bị ai cười, ai nghi ngờ, ai bực bội gì, mà vì Chúa thì tôi cũng vẫn sẽ nói. Tôi chưa đến nỗi bị ai bắt bớ, đánh đập như các Tông-đồ ngày xưa, mà tôi lại đã chùn bước, thì còn nói gì đến “tử vì đạo”?
Lạy Chúa! Xin cho con trở nên mạnh dạn, để con hăng say làm chứng nhân cho Chúa trước mặt mọi người. Xin cho con có can đảm, mà nói về Chúa cho những ai còn chưa biết Chúa, để họ sẽ được hưởng niềm vui đích thực, là niềm vui có Chúa trong đời. Xin cho con luôn ý thức được rằng, tất cả những gì con nói về Chúa là để tôn vinh Chúa, và chúc tụng Chúa mà thôi! Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời. A-men
Thứ Năm, 29 tháng 5, 2014
PHẢI QUA GIAN KHỔ MỚI TỚI NIỀM VUI
“Thật, Thầy bảo thật anh em : anh em sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui.”
(Ga: 16, 20)
Trước khi bước vào Cuộc thương khó, Chúa Giê-su đã báo cho các môn đệ biết, các ông sẽ phải khóc lóc và than van. Khóc lóc than van không những vì mất Thầy, mà còn vì các ông rồi sẽ gặp phải những phiền lụy do cái chết của Thầy mình. Các ông sẽ phải khóc lóc than van, trong khi thế gian vui mừng vì bọn họ tưởng rằng đã tiêu diệt được Thầy của các ông. Và thực tế đã xảy ra là các ông cũng tưởng rằng Thầy mình đã chết, còn nỗi buồn nào chua chát hơn! Song, Chúa Giê-su lúc đó cũng đã nói: “Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui.” Ở vào thời điểm đó các môn đệ chẳng hiểu gì mấy về những lời báo trước của Chúa Giê-su, chỉ khi họ được thấy Chúa Giê-su Phục sinh, họ mới hiểu được niềm vui mà Thầy mình đã nói đến.
Chúa Giê-su đã dạy cho chúng ta một triết lý sống: Phải qua gian khổ mới tới niềm vui. Chính con đường thập giá của Chúa là một tấm gương cho chúng ta. Chúa đã trải qua mọi cảm giác đau khổ: bị môn đệ bỏ rơi trong cơn hoạn nạn, bị xử án một cách oan khiên vì những mưu đồ chính trị của mấy thượng tế Do-thái, chịu nhục mạ, chịu đánh đập và chấp nhận sỉ vả... chịu đóng đinh và chết trần truồng trên thập giá, để hoàn tất công cuộc Cứu Chuộc nhân loại mà Chúa Cha đã giao phó. Trước khi đi vào con đường thập giá, Chúa đã báo cho các môn đệ những gì họ sẽ phải trải qua, và đã dạy dỗ họ những điều cần phải làm sau khi Con Người ra đi. Nhưng, Chúa Giê-su cũng đã khẳng định “Niềm vui của anh Em không ai lấy mất được.” Đấy chính là phần thưởng Nước Trời cho những ai phải chịu đau khổ để bước đi theo Chúa. Cũng như Chúa Giê-su đã chấp nhận con đường thập giá với bao nhục nhằn thống khổ, để rồi Người đạt được niềm vui là đem lại sự tái sinh cho nhân loại, và đặc biệt là niềm vui làm đẹp lòng Chúa Cha.
Ngay từ lúc bắt đầu thu thập môn đệ, Chúa Giê-su đã từng nói: “Ai muốn theo Ta, hãy vác thập giá mình mà theo...“. Là một người theo Chúa, tôi sẽ phải chấp nhận những đau khổ, sẽ phải vác thập giá mình mà theo, phải đấu tranh với những cám dỗ ở đời... để thực thi Lời Chúa. Song, tôi được bảo đảm một phần thưởng trên Nước Trời, tôi sẽ được về hưởng hạnh phúc quê Trời cùng với Chúa. Vấn đề ở chỗ, làm sao tôi có thể vác thập giá mình một cách trung kiên? Tôi biết mình chẳng thể vượt qua những nỗi gian nan khổ sầu nếu như tôi không cậy dựa vào Chúa. Tôi đã tìm ra một cách thức để có thể vượt qua đau khổ, đó là bám chặt vào Đức Ki-tô, Phục sinh. Vâng, tôi biết mình phải sống bám vào Đức Ki-tô, Đấng đã chịu đóng đinh một cách ô nhục trên thập giá vì tôi, và đã Phục sinh vinh hiển. Chính Đức Ki-tô đã cậy dựa vào Chúa Cha như một tấm gương cho tôi noi theo. Trước giờ tử nạn, Người đã từng trải qua cơn sợ hãi đến đổ mồ hôi máu trong vườn Giệt. Tuy nhiên, Người đã tìm được sức mạnh nơi Chúa Cha, qua 3 lần cầu nguyện liên lỉ với Ngài dưới bóng trăng mờ ảo của vườn Giệt năm xưa. Vâng, tôi biết mình chỉ có thể tìm sức mạnh nơi Chúa mới trung kiên theo Chúa đến cùng mà thôi!
Lạy Chúa Ki-tô Phục sinh! Xin thương ban cho con sức mạnh của Chúa, để con có thể theo Chúa đến cùng. Xin Thập Giá của Chúa mãi là vầng trăng sáng cho con dõi bước. Và con cũng xin dâng lên Chúa tâm tình con chịu mọi nỗi gian lao trong đời, như những khúc ca làm vui lòng Chúa Cha trên trời vậy. A-men
(Ga: 16, 20)
Trước khi bước vào Cuộc thương khó, Chúa Giê-su đã báo cho các môn đệ biết, các ông sẽ phải khóc lóc và than van. Khóc lóc than van không những vì mất Thầy, mà còn vì các ông rồi sẽ gặp phải những phiền lụy do cái chết của Thầy mình. Các ông sẽ phải khóc lóc than van, trong khi thế gian vui mừng vì bọn họ tưởng rằng đã tiêu diệt được Thầy của các ông. Và thực tế đã xảy ra là các ông cũng tưởng rằng Thầy mình đã chết, còn nỗi buồn nào chua chát hơn! Song, Chúa Giê-su lúc đó cũng đã nói: “Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui.” Ở vào thời điểm đó các môn đệ chẳng hiểu gì mấy về những lời báo trước của Chúa Giê-su, chỉ khi họ được thấy Chúa Giê-su Phục sinh, họ mới hiểu được niềm vui mà Thầy mình đã nói đến.
Chúa Giê-su đã dạy cho chúng ta một triết lý sống: Phải qua gian khổ mới tới niềm vui. Chính con đường thập giá của Chúa là một tấm gương cho chúng ta. Chúa đã trải qua mọi cảm giác đau khổ: bị môn đệ bỏ rơi trong cơn hoạn nạn, bị xử án một cách oan khiên vì những mưu đồ chính trị của mấy thượng tế Do-thái, chịu nhục mạ, chịu đánh đập và chấp nhận sỉ vả... chịu đóng đinh và chết trần truồng trên thập giá, để hoàn tất công cuộc Cứu Chuộc nhân loại mà Chúa Cha đã giao phó. Trước khi đi vào con đường thập giá, Chúa đã báo cho các môn đệ những gì họ sẽ phải trải qua, và đã dạy dỗ họ những điều cần phải làm sau khi Con Người ra đi. Nhưng, Chúa Giê-su cũng đã khẳng định “Niềm vui của anh Em không ai lấy mất được.” Đấy chính là phần thưởng Nước Trời cho những ai phải chịu đau khổ để bước đi theo Chúa. Cũng như Chúa Giê-su đã chấp nhận con đường thập giá với bao nhục nhằn thống khổ, để rồi Người đạt được niềm vui là đem lại sự tái sinh cho nhân loại, và đặc biệt là niềm vui làm đẹp lòng Chúa Cha.
Ngay từ lúc bắt đầu thu thập môn đệ, Chúa Giê-su đã từng nói: “Ai muốn theo Ta, hãy vác thập giá mình mà theo...“. Là một người theo Chúa, tôi sẽ phải chấp nhận những đau khổ, sẽ phải vác thập giá mình mà theo, phải đấu tranh với những cám dỗ ở đời... để thực thi Lời Chúa. Song, tôi được bảo đảm một phần thưởng trên Nước Trời, tôi sẽ được về hưởng hạnh phúc quê Trời cùng với Chúa. Vấn đề ở chỗ, làm sao tôi có thể vác thập giá mình một cách trung kiên? Tôi biết mình chẳng thể vượt qua những nỗi gian nan khổ sầu nếu như tôi không cậy dựa vào Chúa. Tôi đã tìm ra một cách thức để có thể vượt qua đau khổ, đó là bám chặt vào Đức Ki-tô, Phục sinh. Vâng, tôi biết mình phải sống bám vào Đức Ki-tô, Đấng đã chịu đóng đinh một cách ô nhục trên thập giá vì tôi, và đã Phục sinh vinh hiển. Chính Đức Ki-tô đã cậy dựa vào Chúa Cha như một tấm gương cho tôi noi theo. Trước giờ tử nạn, Người đã từng trải qua cơn sợ hãi đến đổ mồ hôi máu trong vườn Giệt. Tuy nhiên, Người đã tìm được sức mạnh nơi Chúa Cha, qua 3 lần cầu nguyện liên lỉ với Ngài dưới bóng trăng mờ ảo của vườn Giệt năm xưa. Vâng, tôi biết mình chỉ có thể tìm sức mạnh nơi Chúa mới trung kiên theo Chúa đến cùng mà thôi!
Lạy Chúa Ki-tô Phục sinh! Xin thương ban cho con sức mạnh của Chúa, để con có thể theo Chúa đến cùng. Xin Thập Giá của Chúa mãi là vầng trăng sáng cho con dõi bước. Và con cũng xin dâng lên Chúa tâm tình con chịu mọi nỗi gian lao trong đời, như những khúc ca làm vui lòng Chúa Cha trên trời vậy. A-men
Thứ Tư, 28 tháng 5, 2014
NGƯỜI ĐÃ ĐẾN VÀ TÔI MỜI NGƯỜI Ở LẠI...
Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến.”
(Ga: 16,13)
Tôi có cảm nhận được Chúa ở cùng tôi, tôi tin Đức Ki-tô Giê-su Phục sinh, tôi tin Chúa Cha ở trên trời rất yêu thương tôi... tất cả những dấu chỉ khiến tôi cảm nhận được trên đời này tôi có Chúa, đều do bởi Thần Khí Chúa soi dẫn cho tôi. Vâng, chính Thần Khí Chúa đã làm cho tôi trở nên như ngày hôm nay. Kể từ khi tôi biết đón nhận Thần Khí sự thật, tôi đã nhận biết được một điều rất quan trọng: Chúa Giê-su chính là con đường cho tôi bước đi... Và cứ thế, con đường mở ra cho tôi biết bao điều kỳ diệu. Có thể nói, Thần Khí sự thật đã tự tìm đến với tôi, vì thật ra tôi đã không tìm Người. Thần Khí Chúa đã đến với tôi, và tôi đã mời Người ở lại với mình mỗi ngày. Khi tôi nghĩ suy hoặc làm một điều gì, mà lòng trí tôi biết hướng về Người, lập tức, tôi thấy được sức hoạt động của Người trào dâng trong tôi. Và, những việc tôi làm với sự hiện diện của Người đã mang lại cho tôi những kết quả tốt đẹp. Tốt đẹp ở đây dĩ nhiên không theo kiểu thế gian. Bởi thật sự, những kết quả trước mắt đôi khi là những điều trái ý, những khổ đau... nhưng thời gian sau đó, Người đã chỉ ra cho tôi hiểu tại sao tôi phải trải qua những trái ý, những khổ đau ấy...
Đặc biệt, Thần Khí sự thật đã cho tôi hiểu ra giá trị cao siêu của màu nhiệm thập giá, một màu nhiệm mà có lẽ ít ai trên đời này lại yêu thích, bởi nó gắn liền với sự đau khổ. Song le, tôi yêu thích màu nhiệm ấy, bởi chính nhờ hiểu ra giá trị của màu nhiệm thập Giá Chúa Ki-tô, mà tôi đã từ một con người mù lòa khô khan lại trở nên một người thích làm thơ ca tụng Chúa. Nếu không có Thần Khí sự thật ở trong tôi, thúc giục tôi thì có lẽ giờ này tôi đang chìm nghỉm trong một góc tối của địa ngục trần gian. Nếu Người đã không chỉ ra cho tôi thấy giá trị sâu xa của màu nhiệm Thập Giá, thì có lẽ giờ đây tôi đang ngồi than khóc cho số phận của mình một cách vật vã, chứ đâu thể ngồi đây viết về Người! Cuộc sống của tôi hiện nay rất sảng khoái, đến nỗi nhiều người đã ngạc nhiên khi họ gặp tôi. Họ không nghĩ tôi là một người mù, lại là một người mù đầy bệnh tật. Niềm tin mà Thần Khí sự thật mang lại cho tôi khiến tôi cũng tự tin hơn trong cuộc sống, đến nỗi tôi ít khi nào nghĩ đến sự mù lòa của mình, có nhiều tháng tôi đã quên hẳn nó, bạn ạ!
Lạy Chúa Giê-su! Lời Chúa hôm nay nhắc nhở cho con nhớ rằng, nhờ có Thần Khí của Chúa, con mới có sự sống và mới nhận ra sự hiện diện của Chúa trong đời mình. Xin cho con luôn biết kín múc lấy những ơn ích từ mạch suối linh thiêng của Người. Xin Chúa thương ban thần Khí Chúa đến cho mỗi người chúng con một cách dồi dào, để chúng con có thể nhận ra và sống đúng theo thánh ý của Cha trên trời, Chúa nhé!
(Ga: 16,13)
Tôi có cảm nhận được Chúa ở cùng tôi, tôi tin Đức Ki-tô Giê-su Phục sinh, tôi tin Chúa Cha ở trên trời rất yêu thương tôi... tất cả những dấu chỉ khiến tôi cảm nhận được trên đời này tôi có Chúa, đều do bởi Thần Khí Chúa soi dẫn cho tôi. Vâng, chính Thần Khí Chúa đã làm cho tôi trở nên như ngày hôm nay. Kể từ khi tôi biết đón nhận Thần Khí sự thật, tôi đã nhận biết được một điều rất quan trọng: Chúa Giê-su chính là con đường cho tôi bước đi... Và cứ thế, con đường mở ra cho tôi biết bao điều kỳ diệu. Có thể nói, Thần Khí sự thật đã tự tìm đến với tôi, vì thật ra tôi đã không tìm Người. Thần Khí Chúa đã đến với tôi, và tôi đã mời Người ở lại với mình mỗi ngày. Khi tôi nghĩ suy hoặc làm một điều gì, mà lòng trí tôi biết hướng về Người, lập tức, tôi thấy được sức hoạt động của Người trào dâng trong tôi. Và, những việc tôi làm với sự hiện diện của Người đã mang lại cho tôi những kết quả tốt đẹp. Tốt đẹp ở đây dĩ nhiên không theo kiểu thế gian. Bởi thật sự, những kết quả trước mắt đôi khi là những điều trái ý, những khổ đau... nhưng thời gian sau đó, Người đã chỉ ra cho tôi hiểu tại sao tôi phải trải qua những trái ý, những khổ đau ấy...
Đặc biệt, Thần Khí sự thật đã cho tôi hiểu ra giá trị cao siêu của màu nhiệm thập giá, một màu nhiệm mà có lẽ ít ai trên đời này lại yêu thích, bởi nó gắn liền với sự đau khổ. Song le, tôi yêu thích màu nhiệm ấy, bởi chính nhờ hiểu ra giá trị của màu nhiệm thập Giá Chúa Ki-tô, mà tôi đã từ một con người mù lòa khô khan lại trở nên một người thích làm thơ ca tụng Chúa. Nếu không có Thần Khí sự thật ở trong tôi, thúc giục tôi thì có lẽ giờ này tôi đang chìm nghỉm trong một góc tối của địa ngục trần gian. Nếu Người đã không chỉ ra cho tôi thấy giá trị sâu xa của màu nhiệm Thập Giá, thì có lẽ giờ đây tôi đang ngồi than khóc cho số phận của mình một cách vật vã, chứ đâu thể ngồi đây viết về Người! Cuộc sống của tôi hiện nay rất sảng khoái, đến nỗi nhiều người đã ngạc nhiên khi họ gặp tôi. Họ không nghĩ tôi là một người mù, lại là một người mù đầy bệnh tật. Niềm tin mà Thần Khí sự thật mang lại cho tôi khiến tôi cũng tự tin hơn trong cuộc sống, đến nỗi tôi ít khi nào nghĩ đến sự mù lòa của mình, có nhiều tháng tôi đã quên hẳn nó, bạn ạ!
Lạy Chúa Giê-su! Lời Chúa hôm nay nhắc nhở cho con nhớ rằng, nhờ có Thần Khí của Chúa, con mới có sự sống và mới nhận ra sự hiện diện của Chúa trong đời mình. Xin cho con luôn biết kín múc lấy những ơn ích từ mạch suối linh thiêng của Người. Xin Chúa thương ban thần Khí Chúa đến cho mỗi người chúng con một cách dồi dào, để chúng con có thể nhận ra và sống đúng theo thánh ý của Cha trên trời, Chúa nhé!
Thứ Hai, 26 tháng 5, 2014
"NGƯỜI THẬT, VIỆC THẬT"
“Có một bà tên là Ly-đi-a, quê ở Thy—ati-ra, chuyên buôn bán vải điều. Bà là người tôn thờ Thiên Chúa; bà nghe, và Thiên Chúa mở lòng cho bà để bà chú ý tới những lời ông Phao-lô nói.”
(CV: 16,14)
Sách Công Vụ Tông-đồ hôm nay thuật lại chuyện một người phụ nữ đã được Thiên Chúa mở lòng mở trí cho, để mà biết chăm chú nghe lời rao giảng của thánh Phao-lô tông-đồ, là một câu chuyện hay đối với tôi. Vì tôi tin rằng, Thiên Chúa cũng đang thực hiện cho tôi những điều như thế. Người phụ nữ trong câu chuyện này có tên tuổi nghề nghiệp hẳn hoi, bà chính là một mẫu “người thật, việc thật”. Và chỉ vài nét sơ qua cũng đủ cho thấy bà là người thành công trong buôn bán, bà đâu phải là một phụ nữ rảnh rang không biết làm gì mới đi nghe mấy “ổng” nói...Tại sao tôi phải nói về bà Ly-đi-a với những vấn đề như thế? Bởi vì, có một hai người đã tỏ ý nghi ngờ, khi nghe tôi nói mình được ơn Chúa soi sáng và thúc đẩy cho tôi, để tôi chăm chú vào việc đọc Thánh Kinh và viết những dòng suy niệm. Họ cho rằng tôi rảnh rỗi không biết làm gì, nên đành làm những việc ấy cũng là phải thôi... đại khái, ý của họ là vậy. Nhưng tôi xin khẳng định một lần nữa với bạn rằng, mọi biến cố trong đời tôi đã chỉ ra cho thấy Chúa đã dắt tôi đi qua thung lũng tối, và bây giờ đã đưa tôi ra vùng ánh sáng của đồng cỏ xanh tươi, và cho tôi ngồi thảnh thơi bên dòng suối mát... Tất cả như thể Chúa đã dọn sẵn cho tôi mâm cỗ đầy, và còn cho tôi nhấp những ngụm “cà-phê trắng” ngọt ngào của dòng sữa yêu thương... Người cho tôi cảm hứng để tôi viết về Người. Mỗi khi tôi ngồi vào computer với ý định suy nghĩ và viết gì, tôi đều hướng lòng về Chúa với một câu thần chú ngắn gọn: “Xin cho con chỉ viết những gì Chúa muốn!” Bởi đó, tôi tin rằng những gì tôi viết ra đều là do Chúa linh hứng cho tôi, không chỉ là ý riêng của tôi mà thôi đâu, bạn ạ!
Lạy Chúa! Xưa Chúa đã mở lòng mở trí bà Ly-đi-a, để bà biết lắng nghe lời giảng dạy của thánh Phao-lô tông-đồ. Xin cho chúng con, đặc biệt mọi người trong gia đình con biết dành thời gian để lắng nghe Lời
Chúa, lắng nghe lời giảng dạy của các vị linh mục, để chúng con được bước đi trong ánh sáng của Chúa Ki-tô Phục sinh. Chúa là Đấng hiển trị đến muôn thuở muôn đời. A-men
(CV: 16,14)
Sách Công Vụ Tông-đồ hôm nay thuật lại chuyện một người phụ nữ đã được Thiên Chúa mở lòng mở trí cho, để mà biết chăm chú nghe lời rao giảng của thánh Phao-lô tông-đồ, là một câu chuyện hay đối với tôi. Vì tôi tin rằng, Thiên Chúa cũng đang thực hiện cho tôi những điều như thế. Người phụ nữ trong câu chuyện này có tên tuổi nghề nghiệp hẳn hoi, bà chính là một mẫu “người thật, việc thật”. Và chỉ vài nét sơ qua cũng đủ cho thấy bà là người thành công trong buôn bán, bà đâu phải là một phụ nữ rảnh rang không biết làm gì mới đi nghe mấy “ổng” nói...Tại sao tôi phải nói về bà Ly-đi-a với những vấn đề như thế? Bởi vì, có một hai người đã tỏ ý nghi ngờ, khi nghe tôi nói mình được ơn Chúa soi sáng và thúc đẩy cho tôi, để tôi chăm chú vào việc đọc Thánh Kinh và viết những dòng suy niệm. Họ cho rằng tôi rảnh rỗi không biết làm gì, nên đành làm những việc ấy cũng là phải thôi... đại khái, ý của họ là vậy. Nhưng tôi xin khẳng định một lần nữa với bạn rằng, mọi biến cố trong đời tôi đã chỉ ra cho thấy Chúa đã dắt tôi đi qua thung lũng tối, và bây giờ đã đưa tôi ra vùng ánh sáng của đồng cỏ xanh tươi, và cho tôi ngồi thảnh thơi bên dòng suối mát... Tất cả như thể Chúa đã dọn sẵn cho tôi mâm cỗ đầy, và còn cho tôi nhấp những ngụm “cà-phê trắng” ngọt ngào của dòng sữa yêu thương... Người cho tôi cảm hứng để tôi viết về Người. Mỗi khi tôi ngồi vào computer với ý định suy nghĩ và viết gì, tôi đều hướng lòng về Chúa với một câu thần chú ngắn gọn: “Xin cho con chỉ viết những gì Chúa muốn!” Bởi đó, tôi tin rằng những gì tôi viết ra đều là do Chúa linh hứng cho tôi, không chỉ là ý riêng của tôi mà thôi đâu, bạn ạ!
Lạy Chúa! Xưa Chúa đã mở lòng mở trí bà Ly-đi-a, để bà biết lắng nghe lời giảng dạy của thánh Phao-lô tông-đồ. Xin cho chúng con, đặc biệt mọi người trong gia đình con biết dành thời gian để lắng nghe Lời
Chúa, lắng nghe lời giảng dạy của các vị linh mục, để chúng con được bước đi trong ánh sáng của Chúa Ki-tô Phục sinh. Chúa là Đấng hiển trị đến muôn thuở muôn đời. A-men
Chủ Nhật, 25 tháng 5, 2014
CÁNH HOA TIÊU ĐỜI TÔI
“Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy."
(Ga: 14, 21)
Chúa đã tỏ mình ra cho con, để con biết con luôn có Chúa ở cùng
Chúa đã tỏ mình ra cho con, bởi Chúa yêu mến con với cả tấm lòng bao dung độ lượng
Và con biết, Chúa Cha cũng đã tỏ mình ra cho con qua những biến cố đời con sóng gió!
Nhưng, Chúa ơi! Con thấy mình bất xứng!
Con tự hỏi lòng mình, rằng:
Tôi đã thực lòng yêu mến Ngài chưa??
Tôi có quyết tâm giữ những điều răng Ngài truyền dạy,
hay tôi đã lạm dụng lòng yêu mến của Ngài?
Chúa ơi! Hôm nay, ngày mai và mãi mãi
Xin cho con yêu mến Chúa hết lòng
Như Chúa đã yêu con từ muôn thuở!
Và xin cho con luôn ở mãi trong tình yêu mến ấy
Mỗi ngày đời con đây, xin tuân giữ luật Ngài truyền!
Thuyền đời con như cánh buồm căng gió
Gió đưa con đi, đi trên sóng nhấp nhô
Điều răng Chúa, chỉ mấy từ cô đọng
“Mến Chúa, yêu người” như một cánh hoa tiêu
Con phiêu du theo gió khắp biển đời
Phía chân trời là màu xanh hy vọng!!!
(Ga: 14, 21)
Chúa đã tỏ mình ra cho con, để con biết con luôn có Chúa ở cùng
Chúa đã tỏ mình ra cho con, bởi Chúa yêu mến con với cả tấm lòng bao dung độ lượng
Và con biết, Chúa Cha cũng đã tỏ mình ra cho con qua những biến cố đời con sóng gió!
Nhưng, Chúa ơi! Con thấy mình bất xứng!
Con tự hỏi lòng mình, rằng:
Tôi đã thực lòng yêu mến Ngài chưa??
Tôi có quyết tâm giữ những điều răng Ngài truyền dạy,
hay tôi đã lạm dụng lòng yêu mến của Ngài?
Chúa ơi! Hôm nay, ngày mai và mãi mãi
Xin cho con yêu mến Chúa hết lòng
Như Chúa đã yêu con từ muôn thuở!
Và xin cho con luôn ở mãi trong tình yêu mến ấy
Mỗi ngày đời con đây, xin tuân giữ luật Ngài truyền!
Thuyền đời con như cánh buồm căng gió
Gió đưa con đi, đi trên sóng nhấp nhô
Điều răng Chúa, chỉ mấy từ cô đọng
“Mến Chúa, yêu người” như một cánh hoa tiêu
Con phiêu du theo gió khắp biển đời
Phía chân trời là màu xanh hy vọng!!!
Thứ Bảy, 24 tháng 5, 2014
THẦY LÀ NGUỒN CẬY TRÔNG TUYỆT ĐỐI
“Hãy nhớ lời Thầy đã nói với anh em : tôi tớ không lớn hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em.”
(Ga: 15, 20)
Ngày ấy
Họ đã bắt bớ Thầy, dẫn đi như một kẻ tội phạm
Họ đã tra xét Thầy, hỏi cung như thể Thầy là một kẻ bất lương
Họ đã chẳng nương tay, đánh đập Thầy như thể Thầy là một tên cầm đầu phiến loạn
Họ đã sỉ vả nhục mạ, đã phỉ nhổ vào mặt Thầy, như thể Thầy là một tên khốn nạn bần cùng...
Họ đã dùng mão gai đội cho Thầy một vương miện,
họ có ngờ đâu đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh bởi Thầy chính là vua!
Một vị vua thống trị trên muôn ngàn sự đau khổ!
Một vị vua chịu chết treo trần truồng trên thập giá!
Con là tôi tá của Thầy
Bước theo Thầy là bước đi trên vạn nẻo đường chông gai...
Thầy sai con đi, con đâu dám chối từ!
Ơi, Thầy ơi! Lời Thầy như trăn trối
Lối con đi, con biết, đã có Thầy
Thầy sẽ ở bên con, sẽ cùng con tiến bước:
những khi oan trái bủa vây,
những khi lội lầy trong u tối,
những khi đơn côi bị tứ phía hiểu lầm
những khi bị cầm tù trong khốn khó
những khi có kẻ muốn hại con...
có thể ngày mai, con sẽ bị bắt bớ, bị dẫn đi như một kẻ tội đồ...
con biết, con đã có Thầy là sức mạnh, là thuẫn đỡ khiên che, là nguồn cậy trông tuyệt đối!
ới, Thầy ơi! xin cho con luôn vững bước theo Thầy.
(Ga: 15, 20)
Ngày ấy
Họ đã bắt bớ Thầy, dẫn đi như một kẻ tội phạm
Họ đã tra xét Thầy, hỏi cung như thể Thầy là một kẻ bất lương
Họ đã chẳng nương tay, đánh đập Thầy như thể Thầy là một tên cầm đầu phiến loạn
Họ đã sỉ vả nhục mạ, đã phỉ nhổ vào mặt Thầy, như thể Thầy là một tên khốn nạn bần cùng...
Họ đã dùng mão gai đội cho Thầy một vương miện,
họ có ngờ đâu đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh bởi Thầy chính là vua!
Một vị vua thống trị trên muôn ngàn sự đau khổ!
Một vị vua chịu chết treo trần truồng trên thập giá!
Con là tôi tá của Thầy
Bước theo Thầy là bước đi trên vạn nẻo đường chông gai...
Thầy sai con đi, con đâu dám chối từ!
Ơi, Thầy ơi! Lời Thầy như trăn trối
Lối con đi, con biết, đã có Thầy
Thầy sẽ ở bên con, sẽ cùng con tiến bước:
những khi oan trái bủa vây,
những khi lội lầy trong u tối,
những khi đơn côi bị tứ phía hiểu lầm
những khi bị cầm tù trong khốn khó
những khi có kẻ muốn hại con...
có thể ngày mai, con sẽ bị bắt bớ, bị dẫn đi như một kẻ tội đồ...
con biết, con đã có Thầy là sức mạnh, là thuẫn đỡ khiên che, là nguồn cậy trông tuyệt đối!
ới, Thầy ơi! xin cho con luôn vững bước theo Thầy.
Thứ Sáu, 23 tháng 5, 2014
TÌNH THƯƠNG: MỘT QUÀ TẶNG TUYỆT VỜI ĐẾN TỪ THIÊN CHÚA
“Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau.”
(Ga: 15, 17)
Tôi nhớ một chuyện xảy ra cách đây hơn mười năm, câu chuyện ấy đã khiến cho tôi dần trở nên dễ thông cảm với anh chị em khuyết tật, đó là câu chuyện về tình thương của những người đồng cảnh ngộ dành cho nhau. Thời gian ấy, tôi vẫn còn ngù ngờ trong cái thế giới của người mù lắm, mỗi khi đi đâu ra khỏi nhà tôi thường là đi chung với tập thể. Tết Trung thu năm ấy, tôi cùng với các em ở Mái ấm Thiên ân đi lãnh quà của một tổ chức từ thiện nọ. Sau một số tiết mục văn nghệ, người ta phát cho chúng tôi mỗi người một hộp bánh và một chai nước suối. Trên đường ra xe để trở về mái ấm, một em gái 15 tuổi tên là Thu cứ khăng khăng giành lấy phần quà trên tay tôi. Thu nói: “Cô thủy đưa con cầm cho, kẻo cô đau cổ!”. tôi cười: “Trời ơi, có cái bánh trung thu mà cô không cầm nổi, thì cô phải nhịn ăn chứ ai mà cho ăn nữa!”. Nói thì nói vậy, nhưng trong lòng tôi rất cảm động, vì tôi hiểu tình thương mà Thu dành cho tôi. Cô bé biết tôi bị chứng thoái hóa đốt sống cổ, cầm vật gì trên 1kg là bị đau, nếu phải cầm vật đó lâu thì tôi sẽ bị ói...
Thu đã bị mù khi vừa được sinh ra, theo kết luận của các bác sĩ thì em bị mù do ảnh hưởng của thuốc trừ sâu. Có lẽ khi mang thai em, mẹ em đã đi xịt thuốc trừ sâu cho ruộng lúa mà không có biện pháp phòng vệ cho cơ thể. Một cô bé không có một khái niệm gì về ánh sáng; song le, cô bé có một tình thương thật sáng chói. Một lần tâm sự với tôi, cô nói: Con mù từ nhỏ đã quen rồi, thương cho cô Thủy, lớn mà bị mù như thế này thật khổ! Chắc là cô khó chịu lắm nhỉ?” Nghe những lời nói của cô bé, tôi cảm thấy quặn thắt trong lòng, vì thương cho Thu. Dù sao tôi đã có một thời gian sống như người bình thường, và tôi cũng còn được biết mặt mũi cha mẹ anh chị em mình, còn cô bé chẳng hề biết được những điều đó. Vậy mà cô bé lại có một sự cảm thông sâu xa và đem lòng thương yêu đối với người còn may mắn hơn cô là tôi đây. Tôi cảm thấy tấm lòng của Thu thật là quảng đại. Tôi thì thương cho những người mù bẩm sinh, vì rất nhiều thứ họ không thể nào tiếp cận được như ánh sáng, màu sắc... còn đa số những người mù bẩm sinh lại thương cho những người mù ngang như tôi, bởi họ cho rằng đang sống bình thường mà bị tối thì rất khổ. Tình thương yêu giữa đa phần những người đồng cảnh ngộ là như thế đó, có lẽ đó là một trong những nét đẹp tuyệt vời của tình yêu mà Chúa đã ban cho loài người chúng ta, phải không các bạn?
Lạy Chúa Giê-su! Lời Chúa truyền dạy chúng con: “Hãy yêu thương nhau”, đã nhắc nhở con về tình thương bao dung của Chúa, và cũng nhắc nhở con về bổn phận mình phải sống xứng đáng với tình thương của Chúa. Chúa đã ban cho con biết bao tình yêu thương qua những người thân bạn hữu. Chúa đã ban cho con những giây phút được trải qua những cảm xúc tuyệt đẹp như con đã từng có với bé Thu, thì xin Chúa cũng ban cho tất cả những người bình thường có cái nhìn yêu thương đối xứng với tình yêu thương của bé Thu, để nhờ tình yêu đó, những anh chị em khuyết tật còn ngồi trong bóng tối của mặc cảm có thể bước ra vùng ánh sáng.
Xin cho con luôn biết yêu thương mọi người, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, dù cho bất cứ đó là người yêu con hay ghét con, để con có thể xứng đáng với tình thương của Chúa, Chúa nhé!
(Ga: 15, 17)
Tôi nhớ một chuyện xảy ra cách đây hơn mười năm, câu chuyện ấy đã khiến cho tôi dần trở nên dễ thông cảm với anh chị em khuyết tật, đó là câu chuyện về tình thương của những người đồng cảnh ngộ dành cho nhau. Thời gian ấy, tôi vẫn còn ngù ngờ trong cái thế giới của người mù lắm, mỗi khi đi đâu ra khỏi nhà tôi thường là đi chung với tập thể. Tết Trung thu năm ấy, tôi cùng với các em ở Mái ấm Thiên ân đi lãnh quà của một tổ chức từ thiện nọ. Sau một số tiết mục văn nghệ, người ta phát cho chúng tôi mỗi người một hộp bánh và một chai nước suối. Trên đường ra xe để trở về mái ấm, một em gái 15 tuổi tên là Thu cứ khăng khăng giành lấy phần quà trên tay tôi. Thu nói: “Cô thủy đưa con cầm cho, kẻo cô đau cổ!”. tôi cười: “Trời ơi, có cái bánh trung thu mà cô không cầm nổi, thì cô phải nhịn ăn chứ ai mà cho ăn nữa!”. Nói thì nói vậy, nhưng trong lòng tôi rất cảm động, vì tôi hiểu tình thương mà Thu dành cho tôi. Cô bé biết tôi bị chứng thoái hóa đốt sống cổ, cầm vật gì trên 1kg là bị đau, nếu phải cầm vật đó lâu thì tôi sẽ bị ói...
Thu đã bị mù khi vừa được sinh ra, theo kết luận của các bác sĩ thì em bị mù do ảnh hưởng của thuốc trừ sâu. Có lẽ khi mang thai em, mẹ em đã đi xịt thuốc trừ sâu cho ruộng lúa mà không có biện pháp phòng vệ cho cơ thể. Một cô bé không có một khái niệm gì về ánh sáng; song le, cô bé có một tình thương thật sáng chói. Một lần tâm sự với tôi, cô nói: Con mù từ nhỏ đã quen rồi, thương cho cô Thủy, lớn mà bị mù như thế này thật khổ! Chắc là cô khó chịu lắm nhỉ?” Nghe những lời nói của cô bé, tôi cảm thấy quặn thắt trong lòng, vì thương cho Thu. Dù sao tôi đã có một thời gian sống như người bình thường, và tôi cũng còn được biết mặt mũi cha mẹ anh chị em mình, còn cô bé chẳng hề biết được những điều đó. Vậy mà cô bé lại có một sự cảm thông sâu xa và đem lòng thương yêu đối với người còn may mắn hơn cô là tôi đây. Tôi cảm thấy tấm lòng của Thu thật là quảng đại. Tôi thì thương cho những người mù bẩm sinh, vì rất nhiều thứ họ không thể nào tiếp cận được như ánh sáng, màu sắc... còn đa số những người mù bẩm sinh lại thương cho những người mù ngang như tôi, bởi họ cho rằng đang sống bình thường mà bị tối thì rất khổ. Tình thương yêu giữa đa phần những người đồng cảnh ngộ là như thế đó, có lẽ đó là một trong những nét đẹp tuyệt vời của tình yêu mà Chúa đã ban cho loài người chúng ta, phải không các bạn?
Lạy Chúa Giê-su! Lời Chúa truyền dạy chúng con: “Hãy yêu thương nhau”, đã nhắc nhở con về tình thương bao dung của Chúa, và cũng nhắc nhở con về bổn phận mình phải sống xứng đáng với tình thương của Chúa. Chúa đã ban cho con biết bao tình yêu thương qua những người thân bạn hữu. Chúa đã ban cho con những giây phút được trải qua những cảm xúc tuyệt đẹp như con đã từng có với bé Thu, thì xin Chúa cũng ban cho tất cả những người bình thường có cái nhìn yêu thương đối xứng với tình yêu thương của bé Thu, để nhờ tình yêu đó, những anh chị em khuyết tật còn ngồi trong bóng tối của mặc cảm có thể bước ra vùng ánh sáng.
Xin cho con luôn biết yêu thương mọi người, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, dù cho bất cứ đó là người yêu con hay ghét con, để con có thể xứng đáng với tình thương của Chúa, Chúa nhé!
Thứ Năm, 22 tháng 5, 2014
Ở LẠI TRONG TÌNH THƯƠNG CỦA THẦY
“Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy.”(Ga: 15, 9)
Con muốn được ở lại trong tình thương của Thầy
Nơi tràn đầy niềm hạnh phúc thiêng liêng
Nơi vỗ về ủi yên con những khi con đau khổ
Nơi con có thể thổ lộ tất cả những buồn vui cay đắng...
Thầy là tia nắng ấm cho con mỗi khi đời lạnh giá
Con muốn được ở lại trong tình thương da diết của Thầy
Như chiếc lá xanh căng mình ra đón nắng.
Nhưng, Thầy ơi, có những ngày trời mây xám mưa giăng
Con thấy mình bị bão giông cuốn phăng theo gió xoáy!...
Thầy ở đâu khi ấy, hỡi Thầy ơi!
Lời hôm nay, Thầy bày tỏ với con,
một mối tình thiện hảo đến từ Cha chí ái:
“Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy.”
Lời Thầy nói khiến lòng con dậy lên một niềm tin yêu hy vọng
Trọn đời con sẽ được Chúa Cha thương đoái, bởi tình Cha hằng vẫn yêu con qua Người Con chí ái của Ngài!
Con muốn được ở lại trong tình thương của Thầy
Nơi tràn đầy niềm hạnh phúc thiêng liêng
Nơi vỗ về ủi yên con những khi con đau khổ
Nơi con có thể thổ lộ tất cả những buồn vui cay đắng...
Thầy là tia nắng ấm cho con mỗi khi đời lạnh giá
Con muốn được ở lại trong tình thương da diết của Thầy
Như chiếc lá xanh căng mình ra đón nắng.
Nhưng, Thầy ơi, có những ngày trời mây xám mưa giăng
Con thấy mình bị bão giông cuốn phăng theo gió xoáy!...
Thầy ở đâu khi ấy, hỡi Thầy ơi!
Lời hôm nay, Thầy bày tỏ với con,
một mối tình thiện hảo đến từ Cha chí ái:
“Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy.”
Lời Thầy nói khiến lòng con dậy lên một niềm tin yêu hy vọng
Trọn đời con sẽ được Chúa Cha thương đoái, bởi tình Cha hằng vẫn yêu con qua Người Con chí ái của Ngài!
Thứ Tư, 21 tháng 5, 2014
CÀNH NHO & "CÂY NHO THẬT"
“Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. Cành nào dính liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn.”
(GA: 15, 1-2)
Tại sao Chúa Giê-su phải nói: “Thầy là cây nho thật”? Chẳng lẽ lại có cây nho giả nữa sao? Ồ, bây giờ đời nhiễu nhương trăm nẻo. Tôi thấy những người buôn bán hỏi nhau một cách tỉnh bơ: “Có áo đểu không? Hoặc là: “Lấy cho 2 cái áo xịn, với lại 10 cái áo dổm nhé!”... Không phải là người đi buôn chuyên nghiệp, nhưng chắc hẳn ai nghe cũng hiểu nghĩa của các từ ngữ: “xịn”, “dổm”... áo “đểu” là lối nói của dân buôn miền Bắc, còn dân buôn miền Nam thì gọi là: áo “dổm”... Những từ ngữ này chỉ mới xuốt hiện khoảng 3, 4 thập niên gần đây, vậy mà nó đã trở thành ngôn ngữ rất thông dụng. Nếu như thời Chúa Giê-su đã có loại từ ngữ này, thì chắc hẳn Người đã nói: “Thầy là cây nho xịn”, để đảm bảo với các môn đệ của Người rằng cây nho của Cha mình trồng là một cây nho thực thụ... Bây giờ người ta trồng cây không phải cực khổ kéo dài ngày như trước kia, một người bà con của tôi làm nghề nông kể rằng: người ta trồng dưa leo, khi trái dưa leo mới đậu quả bằng ngón tay trỏ, người ta hái xuống, rồi nhúng vào một loại thuốc gì đó, trái dưa leo nở ra to đùng, có thể đem ra chợ bán một cách khỏe re. Người bà con của tôi không dám làm theo người ta chỉ vẽ, dì ấy còm cõi trồng rau sạch thì phải cực khổ bắt sâu, vun tưới cho rau, nhiều ngày lao công vất vả mới được sản phẩm rau đem bán... Tóm lại là có cây thực, cây giả, bạn ạ!
Ngày ấy, Chúa Giê-su đã khẳng định: “Cha Thầy là người trồng nho”, Người Cha đã sinh ra con, đã trồng lên một cây nho, tất nhiên ông phải hết sức chăm chút cho cây nho của mình! Người Cha đâu muốn những trái nho trong vườn của mình là những trái nho “dổm”! Vì thế, ông phải ra sức vun xới cắt tỉa để cho nó sinh hoa trái một cách tự nhiên. Cây nho chịu sự cắt tỉa của người trồng nho, thì cây nho phải chịu những sự đau đớn. Người Cha thương con, nhưng vẫn phải cắt tỉa để cho nhành của nó được sinh hoa kết quả một cách dồi dào.
“Cành nào dính liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn.” Người Con đã tự hiến mình, như gốc nho trao ban nhựa sống cho cành nho thế nào, thì Người cũng đã trao ban sự sống của Người cho nhân loại chúng ta thế ấy, hầu mang lại sự sống dồi dào cho chúng ta. Cành nho nào không liên quan mật thiết với cây nho, tất nhiên không thể hút được nhựa sống từ đó, và dần sẽ trở nên khô héo, chẳng thể sinh hoa kết quả. Vậy, tôi đã có quan hệ như thế nào với Chúa Giê-su? tôi đã là một cành nho dính liền một cách mật thiết với “Cây nho thật” chưa? Cành nho tôi đã sinh hoa kết quả làm vui lòng người trồng nho hay chưa?
Người Cha là Thiên Chúa đầy lòng nhân hậu, nhưng Ngài cũng là một Thiên Chúa chí công, Ngài chỉ muốn cây nho sinh những trái nho thật. Ngài không chấp nhận những trái nho “dổm”, kiểu như người ta có thể nhúng vào một loại chất hóa học mà bỏ qua giai đoạn cắt tỉa đớn đau.
Lạy Chúa Giê-su! Xin cho con luôn giữ được mối quan hệ mật thiết với Chúa, để con có thể hút được nhựa sống từ “Cây nho thật”, mà trở nên một cành nho xinh tươi trong vườn nho của Chúa Cha. Xin cho con luôn biết cam tâm chịu đựng những trái ý ở đời, như chịu đựng sự cắt tỉa của người trồng nho, để cành nho con có thể sinh những hoa trái tốt đẹp làm rạng danh Chúa Cha của chúng ta, Chúa nhé!
(GA: 15, 1-2)
Tại sao Chúa Giê-su phải nói: “Thầy là cây nho thật”? Chẳng lẽ lại có cây nho giả nữa sao? Ồ, bây giờ đời nhiễu nhương trăm nẻo. Tôi thấy những người buôn bán hỏi nhau một cách tỉnh bơ: “Có áo đểu không? Hoặc là: “Lấy cho 2 cái áo xịn, với lại 10 cái áo dổm nhé!”... Không phải là người đi buôn chuyên nghiệp, nhưng chắc hẳn ai nghe cũng hiểu nghĩa của các từ ngữ: “xịn”, “dổm”... áo “đểu” là lối nói của dân buôn miền Bắc, còn dân buôn miền Nam thì gọi là: áo “dổm”... Những từ ngữ này chỉ mới xuốt hiện khoảng 3, 4 thập niên gần đây, vậy mà nó đã trở thành ngôn ngữ rất thông dụng. Nếu như thời Chúa Giê-su đã có loại từ ngữ này, thì chắc hẳn Người đã nói: “Thầy là cây nho xịn”, để đảm bảo với các môn đệ của Người rằng cây nho của Cha mình trồng là một cây nho thực thụ... Bây giờ người ta trồng cây không phải cực khổ kéo dài ngày như trước kia, một người bà con của tôi làm nghề nông kể rằng: người ta trồng dưa leo, khi trái dưa leo mới đậu quả bằng ngón tay trỏ, người ta hái xuống, rồi nhúng vào một loại thuốc gì đó, trái dưa leo nở ra to đùng, có thể đem ra chợ bán một cách khỏe re. Người bà con của tôi không dám làm theo người ta chỉ vẽ, dì ấy còm cõi trồng rau sạch thì phải cực khổ bắt sâu, vun tưới cho rau, nhiều ngày lao công vất vả mới được sản phẩm rau đem bán... Tóm lại là có cây thực, cây giả, bạn ạ!
Ngày ấy, Chúa Giê-su đã khẳng định: “Cha Thầy là người trồng nho”, Người Cha đã sinh ra con, đã trồng lên một cây nho, tất nhiên ông phải hết sức chăm chút cho cây nho của mình! Người Cha đâu muốn những trái nho trong vườn của mình là những trái nho “dổm”! Vì thế, ông phải ra sức vun xới cắt tỉa để cho nó sinh hoa trái một cách tự nhiên. Cây nho chịu sự cắt tỉa của người trồng nho, thì cây nho phải chịu những sự đau đớn. Người Cha thương con, nhưng vẫn phải cắt tỉa để cho nhành của nó được sinh hoa kết quả một cách dồi dào.
“Cành nào dính liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn.” Người Con đã tự hiến mình, như gốc nho trao ban nhựa sống cho cành nho thế nào, thì Người cũng đã trao ban sự sống của Người cho nhân loại chúng ta thế ấy, hầu mang lại sự sống dồi dào cho chúng ta. Cành nho nào không liên quan mật thiết với cây nho, tất nhiên không thể hút được nhựa sống từ đó, và dần sẽ trở nên khô héo, chẳng thể sinh hoa kết quả. Vậy, tôi đã có quan hệ như thế nào với Chúa Giê-su? tôi đã là một cành nho dính liền một cách mật thiết với “Cây nho thật” chưa? Cành nho tôi đã sinh hoa kết quả làm vui lòng người trồng nho hay chưa?
Người Cha là Thiên Chúa đầy lòng nhân hậu, nhưng Ngài cũng là một Thiên Chúa chí công, Ngài chỉ muốn cây nho sinh những trái nho thật. Ngài không chấp nhận những trái nho “dổm”, kiểu như người ta có thể nhúng vào một loại chất hóa học mà bỏ qua giai đoạn cắt tỉa đớn đau.
Lạy Chúa Giê-su! Xin cho con luôn giữ được mối quan hệ mật thiết với Chúa, để con có thể hút được nhựa sống từ “Cây nho thật”, mà trở nên một cành nho xinh tươi trong vườn nho của Chúa Cha. Xin cho con luôn biết cam tâm chịu đựng những trái ý ở đời, như chịu đựng sự cắt tỉa của người trồng nho, để cành nho con có thể sinh những hoa trái tốt đẹp làm rạng danh Chúa Cha của chúng ta, Chúa nhé!
Thứ Bảy, 17 tháng 5, 2014
CON ĐÃ THẤY "THẦY", NHƯNG...!
"Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư ? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói : 'Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha'?”
(Ga: 14, 9)
Còn nỗi buồn nào buồn hơn nỗi buồn của người Thầy, khi mà học trò của mình chẳng mấy hiểu mình! Thầy ở với trò đã bao năm, đã nói cho các trò nghe biết bao điều về Cha mình, thế mà trò lại còn hỏi: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha.”
Vâng, nhân loại chúng con thường có thái độ giống như ông Phi-líp-phê vậy! Chúng con thường đòi hỏi phải được thấy tận mắt thì chúng con mới chịu tin. Cũng bởi chúng con kém lòng tin, nên chúng con khó mà hình dung ra Chúa Cha. Mặc dù Chúa đã nhiều lần nói với các môn đệ rằng: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.”, nhưng hầu như chẳng mấy ai có thể hình dung ra Ngài. Chúng con giống như những đứa trẻ chưa hiểu chuyện, cứ đòi thầy cô cha mẹ phải chiều theo ý mình, chỉ muốn những gì có lợi trước mắt chứ chẳng nghĩ gì đến lợi ích cho bản thân mình ở tương lai. Rồi thì, trách cứ thầy cô cha mẹ bắt mình phải cực khổ học hành, trách cứ thầy cô cha mẹ sao lúc nào cũng cấm đoán mình hết cái này đến cái nọ...!
Lạy Chúa Giê-su! Thầy chí thánh của con! Con đã thấy Thầy và được nghe Lời Thầy, nhưng đôi khi những điều Thầy dạy, con thật khó mà thực hiện. Vì thế, con thường tránh né, cũng giống như những đứa trẻ chưa hiểu chuyện, chỉ muốn làm những điều dễ dàng thuận lợi cho bản thân. Chính vì né tránh, con không đi theo đúng con đường Chúa đã chỉ dạy, con đường mà chỉ duy nó mới dẫn chúng con đến gặp Chúa Cha. Cũng may “cú ngã ngựa thần kỳ”, cú ngã ngựa khiến cho cặp mắt thể lý của con trở nên mù lòa, nhưng lại làm cho đôi mắt đức tin trong con lóe sáng, con đã nhìn thấy Chúa. “Cú ngã ngựa” này đã giúp con hiểu được giá trị của con đường thập giá mà Chúa đã đi. Tuy rằng con đường này đầy gian truân khổ lụy, nhưng con vững tin rằng, cứ bám vào thập giá Đức Ki-tô, thì con luôn được thấy Chúa. Thấy Chúa rồi cũng như nhìn thấy Chúa Cha. Vậy chẳng phải con đang trên đường tiến gần về nhà Cha hay sao? Nhưng, Chúa ơi, con vẫn còn là một đứa trẻ trong vòng tay của Chúa, con vẫn còn nhiều lắm cái xu hướng ngả theo những đứa trẻ trốn học đi hái hoa bắt bướm dọc đàng... Xin Chúa luôn dắt dìu con trong cánh tay mạnh mẽ của Chúa, Chúa nhé!
Lời nhắn gởi tới anh chị em khuyết tật:
Anh chị em thân mến! Anh chị em chắc cũng như tôi, đã có một “cú ngã ngựa thần kỳ” như thánh Phao-lô trở lại, để rồi ánh sáng của Chúa Ki-tô Phục sinh trở nên chói ngời trong anh chị em. Trên thân thể khiếm khuyết của anh chị em đã hằn mang dấu vết của thập giá Đức Ki-tô rồi, thì chắc hẳn anh chị em sẽ dễ nhìn thấy “Thầy” hơn những người bình thường khác, và đó lại là một ơn thiêng giúp chúng ta dễ dàng hơn trong việc chấp nhận Thánh giá đời mình để rồi đi trọn con đường về nhà Cha mình ở trên trời. Mến chúc anh chị em luôn cảm nhận được tình yêu bao dung của Thiên Chúa!
(Ga: 14, 9)
Còn nỗi buồn nào buồn hơn nỗi buồn của người Thầy, khi mà học trò của mình chẳng mấy hiểu mình! Thầy ở với trò đã bao năm, đã nói cho các trò nghe biết bao điều về Cha mình, thế mà trò lại còn hỏi: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha.”
Vâng, nhân loại chúng con thường có thái độ giống như ông Phi-líp-phê vậy! Chúng con thường đòi hỏi phải được thấy tận mắt thì chúng con mới chịu tin. Cũng bởi chúng con kém lòng tin, nên chúng con khó mà hình dung ra Chúa Cha. Mặc dù Chúa đã nhiều lần nói với các môn đệ rằng: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.”, nhưng hầu như chẳng mấy ai có thể hình dung ra Ngài. Chúng con giống như những đứa trẻ chưa hiểu chuyện, cứ đòi thầy cô cha mẹ phải chiều theo ý mình, chỉ muốn những gì có lợi trước mắt chứ chẳng nghĩ gì đến lợi ích cho bản thân mình ở tương lai. Rồi thì, trách cứ thầy cô cha mẹ bắt mình phải cực khổ học hành, trách cứ thầy cô cha mẹ sao lúc nào cũng cấm đoán mình hết cái này đến cái nọ...!
Lạy Chúa Giê-su! Thầy chí thánh của con! Con đã thấy Thầy và được nghe Lời Thầy, nhưng đôi khi những điều Thầy dạy, con thật khó mà thực hiện. Vì thế, con thường tránh né, cũng giống như những đứa trẻ chưa hiểu chuyện, chỉ muốn làm những điều dễ dàng thuận lợi cho bản thân. Chính vì né tránh, con không đi theo đúng con đường Chúa đã chỉ dạy, con đường mà chỉ duy nó mới dẫn chúng con đến gặp Chúa Cha. Cũng may “cú ngã ngựa thần kỳ”, cú ngã ngựa khiến cho cặp mắt thể lý của con trở nên mù lòa, nhưng lại làm cho đôi mắt đức tin trong con lóe sáng, con đã nhìn thấy Chúa. “Cú ngã ngựa” này đã giúp con hiểu được giá trị của con đường thập giá mà Chúa đã đi. Tuy rằng con đường này đầy gian truân khổ lụy, nhưng con vững tin rằng, cứ bám vào thập giá Đức Ki-tô, thì con luôn được thấy Chúa. Thấy Chúa rồi cũng như nhìn thấy Chúa Cha. Vậy chẳng phải con đang trên đường tiến gần về nhà Cha hay sao? Nhưng, Chúa ơi, con vẫn còn là một đứa trẻ trong vòng tay của Chúa, con vẫn còn nhiều lắm cái xu hướng ngả theo những đứa trẻ trốn học đi hái hoa bắt bướm dọc đàng... Xin Chúa luôn dắt dìu con trong cánh tay mạnh mẽ của Chúa, Chúa nhé!
Lời nhắn gởi tới anh chị em khuyết tật:
Anh chị em thân mến! Anh chị em chắc cũng như tôi, đã có một “cú ngã ngựa thần kỳ” như thánh Phao-lô trở lại, để rồi ánh sáng của Chúa Ki-tô Phục sinh trở nên chói ngời trong anh chị em. Trên thân thể khiếm khuyết của anh chị em đã hằn mang dấu vết của thập giá Đức Ki-tô rồi, thì chắc hẳn anh chị em sẽ dễ nhìn thấy “Thầy” hơn những người bình thường khác, và đó lại là một ơn thiêng giúp chúng ta dễ dàng hơn trong việc chấp nhận Thánh giá đời mình để rồi đi trọn con đường về nhà Cha mình ở trên trời. Mến chúc anh chị em luôn cảm nhận được tình yêu bao dung của Thiên Chúa!
Thứ Sáu, 16 tháng 5, 2014
XIN DÂNG LÊN CHÚA NHỮNG XAO XUYẾN CỦA LÒNG CON!
“Anh em đừng xao xuyến ! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.” (GA: 14, 1)
Chúa ơi, Chúa có nghe chăng những nỗi lòng xao xuyến đang hướng về Chúa? Con dân nước Việt, biết bao nỗi lòng đang thấp thỏm sợ hãi vì những cuộc nhiễu nhương rập rình tứ phía? Họ biết trông mong vào đâu? Nỗi sợ hãi về một cuộc chiến sắp xảy ra, những ký ức về chiến tranh vẫn còn in đậm nét trong trí óc của một bé gái 8, 9 tuổi nơi con, khiến cho lòng con đầy xao xuyến!
Nhiều lúc, chúng con cảm thấy như bị thít chặt vào giữa vòng vây, không còn biết đường nào mà trốn chạy nữa! Cuộc sống đã làm cho con người ta trở nên giống như những con thú sợ mũi tên của thợ săn, sống co lại trong chiếc vỏ bọc của chính mình, để rồi dần trở nên những con người ích kỷ. Bản thân con cũng đã nhiều lúc phải ứng xử như vậy, còn biết nói làm sao hơn! Mấy hôm nay con còn nghe được tâm sự của một người bạn khuyết tật, bạn ấy chia sẻ với con về nỗi buồn bị người nhà khinh rẻ. Khi mà bạn ấy vẫn còn có thể làm được việc gì cho người nhà thì người nhà sai bảo như một đầy tớ... còn khi người nhà không cần đến đầy tớ, thì người bạn của con phải lánh mặt ra nơi khác, kẻo người nhà của bạn ấy phải xấu hổ với thiên hạ... Làm sao mà lòng con không xao xuyến, hở Chúa?
Lời Chúa hôm nay củng cố cho con một niềm tin tưởng mới, Chúa đã nói như thế thì con không còn phải xao xuyến nữa! Con nhớ lại buổi hoàng hôn máu lệ trong vườn Giệt, Chúa cũng từng xao xuyến. Nhưng Chúa đã đem nỗi xao xuyến ấy tỏ bày và cầu nguyện cùng Chúa Cha... để rồi Chúa có đủ sức mạnh uống cạn chén đắng đến giọt cuối cùng trên thập giá.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con! Xin Ngài hãy vì Đức Ki-tô Giê-su con của Ngài đã từng chịu chết treo trên thập giá mà đoái thương chúng con, xin hãy ban sức mạnh và niềm tin cho chúng con, để chúng con có thể vượt qua được cơn nhiễu nhương này.
Xin cho anh chị em khuyết tật chúng con được mọi người bình thường nhìn nhận bằng chính phẩm giá của chúng con, chứ không phải bằng một cái nhìn khinh rẻ lệch lạc. Xin cho những anh chị em khuyết tật còn đang ở trong hoàn cảnh tủi sầu với chính người nhà của họ, sẽ tìm thấy nguồn an ủi cảm thông từ Con Chúa. Chúa là Đấng hiển trị muôn đời. A-men
Chúa ơi, Chúa có nghe chăng những nỗi lòng xao xuyến đang hướng về Chúa? Con dân nước Việt, biết bao nỗi lòng đang thấp thỏm sợ hãi vì những cuộc nhiễu nhương rập rình tứ phía? Họ biết trông mong vào đâu? Nỗi sợ hãi về một cuộc chiến sắp xảy ra, những ký ức về chiến tranh vẫn còn in đậm nét trong trí óc của một bé gái 8, 9 tuổi nơi con, khiến cho lòng con đầy xao xuyến!
Nhiều lúc, chúng con cảm thấy như bị thít chặt vào giữa vòng vây, không còn biết đường nào mà trốn chạy nữa! Cuộc sống đã làm cho con người ta trở nên giống như những con thú sợ mũi tên của thợ săn, sống co lại trong chiếc vỏ bọc của chính mình, để rồi dần trở nên những con người ích kỷ. Bản thân con cũng đã nhiều lúc phải ứng xử như vậy, còn biết nói làm sao hơn! Mấy hôm nay con còn nghe được tâm sự của một người bạn khuyết tật, bạn ấy chia sẻ với con về nỗi buồn bị người nhà khinh rẻ. Khi mà bạn ấy vẫn còn có thể làm được việc gì cho người nhà thì người nhà sai bảo như một đầy tớ... còn khi người nhà không cần đến đầy tớ, thì người bạn của con phải lánh mặt ra nơi khác, kẻo người nhà của bạn ấy phải xấu hổ với thiên hạ... Làm sao mà lòng con không xao xuyến, hở Chúa?
Lời Chúa hôm nay củng cố cho con một niềm tin tưởng mới, Chúa đã nói như thế thì con không còn phải xao xuyến nữa! Con nhớ lại buổi hoàng hôn máu lệ trong vườn Giệt, Chúa cũng từng xao xuyến. Nhưng Chúa đã đem nỗi xao xuyến ấy tỏ bày và cầu nguyện cùng Chúa Cha... để rồi Chúa có đủ sức mạnh uống cạn chén đắng đến giọt cuối cùng trên thập giá.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con! Xin Ngài hãy vì Đức Ki-tô Giê-su con của Ngài đã từng chịu chết treo trên thập giá mà đoái thương chúng con, xin hãy ban sức mạnh và niềm tin cho chúng con, để chúng con có thể vượt qua được cơn nhiễu nhương này.
Xin cho anh chị em khuyết tật chúng con được mọi người bình thường nhìn nhận bằng chính phẩm giá của chúng con, chứ không phải bằng một cái nhìn khinh rẻ lệch lạc. Xin cho những anh chị em khuyết tật còn đang ở trong hoàn cảnh tủi sầu với chính người nhà của họ, sẽ tìm thấy nguồn an ủi cảm thông từ Con Chúa. Chúa là Đấng hiển trị muôn đời. A-men
Thứ Năm, 15 tháng 5, 2014
TÂM SỰ CỦA MỘT KẺ ĐƯỢC SAI ĐI
Thật, Thầy bảo thật anh em : tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi. Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em ! Thầy không nói về tất cả anh em đâu. Chính Thầy biết những người Thầy đã chọn, nhưng phải ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây : Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con.”
(Ga: 13, 16-18)
“Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con.” Chúa Giê-su đã biết trước rồi sẽ có sự việc như thế xảy ra, khi được Đức Chúa Cha sai đi. Nhưng, Người vẫn ra đi, để làm tròn sứ mạng người Cha giao phó.
Với bản tính con người, nếu biết trước có ai đó sẽ tìm cách hại mình, hẳn tôi đã tìm cách đề phòng nó, thậm chí còn “tiên hạ thủ vi cường” đối với nó, để nó không thể làm gì hại mình, chứ có đâu lại nín lặng chờ nó ra tay! Thời gian sau này, tôi không còn muốn “tiên hạ thủ vi cường” với ai nữa, song le, nếu có bị ai đó đối xử tệ với mình, thì dù có nín lặng bỏ qua cho người đó tôi vẫn cảm thấy chua chát xót xa cho mình, chứ chẳng thể nào “bình thường hóa” mối quan hệ giữa tôi với người ấy một cách thực lòng được.
Lời Chúa hôm nay cho tôi hiểu rằng: Chúa Giê-su là Thầy của tôi mà còn bị người ta “giơ gót” đạp cho như thế, huống hồ tôi là kẻ được Thầy sai đi. Tương lai về sau Chúa saitôi đi đâu thì tôi chưa biết, nhưng trong quá khứ tôi cũng đã gặp vài ba kẻ “giơ gót” ĐẠP CHO NHỮNG CÚ KHÁ ĐAU... Tôi cảm ơn Chúa, vì bây giờ tôi đã ý thức được mình là môn đệ của Chúa, tôi không còn muốn “tiên hạ thủ vi cường”, cũng chẳng ra mặt đôi co với đối phương như trước nữa, đó là những cuộc chiến tôi chịu thua cuộc để rồi được phục sinh cùng với Chúa Ki-tô, người Thầy chí ái của tôi... Nhưng tôi không biết tôi có thể nhịn đến mức nào, nếu như những “cú đạp” sẽ ghê gớm hơn?
Lạy Chúa Giê-su! Xin cho con luôn biết kiểm soát những suy nghĩ và cảm xúc trong con, để con có thể thực hành những gì Chúa dạy. Xin cho con luôn sống xứng đáng là một người môn đệ của Chúa, và sẵn sàng ra đi bất cứ nơi đâu Chúa muốn. XinBAN CHO CON MỘT TẤM LÒNG KIÊN TRUNG ĐỂ con có thể RA ĐI THEO Chúa đến cùng, Chúa nhé!
(Ga: 13, 16-18)
“Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con.” Chúa Giê-su đã biết trước rồi sẽ có sự việc như thế xảy ra, khi được Đức Chúa Cha sai đi. Nhưng, Người vẫn ra đi, để làm tròn sứ mạng người Cha giao phó.
Với bản tính con người, nếu biết trước có ai đó sẽ tìm cách hại mình, hẳn tôi đã tìm cách đề phòng nó, thậm chí còn “tiên hạ thủ vi cường” đối với nó, để nó không thể làm gì hại mình, chứ có đâu lại nín lặng chờ nó ra tay! Thời gian sau này, tôi không còn muốn “tiên hạ thủ vi cường” với ai nữa, song le, nếu có bị ai đó đối xử tệ với mình, thì dù có nín lặng bỏ qua cho người đó tôi vẫn cảm thấy chua chát xót xa cho mình, chứ chẳng thể nào “bình thường hóa” mối quan hệ giữa tôi với người ấy một cách thực lòng được.
Lời Chúa hôm nay cho tôi hiểu rằng: Chúa Giê-su là Thầy của tôi mà còn bị người ta “giơ gót” đạp cho như thế, huống hồ tôi là kẻ được Thầy sai đi. Tương lai về sau Chúa saitôi đi đâu thì tôi chưa biết, nhưng trong quá khứ tôi cũng đã gặp vài ba kẻ “giơ gót” ĐẠP CHO NHỮNG CÚ KHÁ ĐAU... Tôi cảm ơn Chúa, vì bây giờ tôi đã ý thức được mình là môn đệ của Chúa, tôi không còn muốn “tiên hạ thủ vi cường”, cũng chẳng ra mặt đôi co với đối phương như trước nữa, đó là những cuộc chiến tôi chịu thua cuộc để rồi được phục sinh cùng với Chúa Ki-tô, người Thầy chí ái của tôi... Nhưng tôi không biết tôi có thể nhịn đến mức nào, nếu như những “cú đạp” sẽ ghê gớm hơn?
Lạy Chúa Giê-su! Xin cho con luôn biết kiểm soát những suy nghĩ và cảm xúc trong con, để con có thể thực hành những gì Chúa dạy. Xin cho con luôn sống xứng đáng là một người môn đệ của Chúa, và sẵn sàng ra đi bất cứ nơi đâu Chúa muốn. XinBAN CHO CON MỘT TẤM LÒNG KIÊN TRUNG ĐỂ con có thể RA ĐI THEO Chúa đến cùng, Chúa nhé!
Thứ Tư, 14 tháng 5, 2014
CHÍNH CHÚA ĐÃ CHỌN CON
“Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em.”
(Ga: 15, 16)
Lạy Chúa! Con như đang nghe thấy tiếng Chúa nói bên tai: “Thủy ơi, Ta đã chọn con và cắt cử con, để con ra đi sinh được hoa trái...!” Con tự hỏi, mình đã sinh được những hoa trái gì cho Chúa, và hoa trái của con có tồn tại không, hay con chỉ biết mở miệng kêu xin Chúa điều này điều nọ, hay chỉ biết hở miệng ra là than cực than khổ?
Vâng, chính là Chúa đã chọn con.
Chính Chúa đã ban cho con biết bao ơn lành và những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Con đã được Chúa ban cho rất nhiều so với những người chung quanh. Đặc biệt, so với những anh chị em khuyết tật, con thấy mình đã gặp may mắn suông sẻ hơn họ biết là bao nhiêu!
Lạy Chúa! Con biết mình cần phải nỗ lực sống và sống một cách dồi dào, để xứng đáng làm một tông đồ giáo dân, một giáo dân sống đời sống phục vụ vì yêu thương như Chúa đã dạy. Con biết mình phải
ra đi giữa lòng đời còn rất nhiều những con người bất hạnh khổ đau, để sinh nhiều hoa trái cho Chúa.
Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã chọn con và cắt cử để con ra đi! Xin cho con luôn vững bước trên con đường phục vụ yêu thương, và những việc con làm đều được làm theo sự hướng dẫn chỉ đạo của thần Khí Chúa. Xin Chúa hãy ở bên con mọi lúc mọi nơi, đặc biệt những lúc con ngã lòng nhụt chí. Xin cho những hoa trái mà con mang về cho Chúa sẽ là những hoa trái làm đẹp lòng Chúa Cha trên trời. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị đến muôn thuở muôn đời. A-men
(Ga: 15, 16)
Lạy Chúa! Con như đang nghe thấy tiếng Chúa nói bên tai: “Thủy ơi, Ta đã chọn con và cắt cử con, để con ra đi sinh được hoa trái...!” Con tự hỏi, mình đã sinh được những hoa trái gì cho Chúa, và hoa trái của con có tồn tại không, hay con chỉ biết mở miệng kêu xin Chúa điều này điều nọ, hay chỉ biết hở miệng ra là than cực than khổ?
Vâng, chính là Chúa đã chọn con.
Chính Chúa đã ban cho con biết bao ơn lành và những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Con đã được Chúa ban cho rất nhiều so với những người chung quanh. Đặc biệt, so với những anh chị em khuyết tật, con thấy mình đã gặp may mắn suông sẻ hơn họ biết là bao nhiêu!
Lạy Chúa! Con biết mình cần phải nỗ lực sống và sống một cách dồi dào, để xứng đáng làm một tông đồ giáo dân, một giáo dân sống đời sống phục vụ vì yêu thương như Chúa đã dạy. Con biết mình phải
ra đi giữa lòng đời còn rất nhiều những con người bất hạnh khổ đau, để sinh nhiều hoa trái cho Chúa.
Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã chọn con và cắt cử để con ra đi! Xin cho con luôn vững bước trên con đường phục vụ yêu thương, và những việc con làm đều được làm theo sự hướng dẫn chỉ đạo của thần Khí Chúa. Xin Chúa hãy ở bên con mọi lúc mọi nơi, đặc biệt những lúc con ngã lòng nhụt chí. Xin cho những hoa trái mà con mang về cho Chúa sẽ là những hoa trái làm đẹp lòng Chúa Cha trên trời. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị đến muôn thuở muôn đời. A-men
Thứ Ba, 13 tháng 5, 2014
LỜI NGUYỆN CỦA CON CHIÊN NHỎ
“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi ; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời ; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi.”
(Ga: 10, 27-28)
Lúc nào đó, con chiên nhỏ này không chịu nghe tiếng Chúa, là lúc con không còn ở trong đàn chiên của Chúa nữa?
Chẳng ai có thể cướp chiên nhỏ này khỏi vòng tay của Chúa, chỉ là vì chiên này đã muốn bỏ đi hoang!
Ôi, Chúa chiên lành! Vị mục tử nhân hậu của con ơi...
Chỉ mình Ngài, chỉ có Ngài mới đem lại cho con sự sống đời đời
Trong vòng tay yêu thương của Ngài con sẽ không bao giờ lạc lõng, con chẳng sợ mình sẽ bị diệt vong!
Xin đừng rời mắt khỏi con và giữ chặt con trong cánh tay của Ngài
Xin cho con luôn biết lắng nghe tiếng Ngài, dù trong đêm tối hiểm nguy, hay khi đời con tràn đầy nắng ấm!
Và, Chúa ơi!
Xin cho đàn chiên của Ngài ngày một thêm đông đảo!
(Ga: 10, 27-28)
Lúc nào đó, con chiên nhỏ này không chịu nghe tiếng Chúa, là lúc con không còn ở trong đàn chiên của Chúa nữa?
Chẳng ai có thể cướp chiên nhỏ này khỏi vòng tay của Chúa, chỉ là vì chiên này đã muốn bỏ đi hoang!
Ôi, Chúa chiên lành! Vị mục tử nhân hậu của con ơi...
Chỉ mình Ngài, chỉ có Ngài mới đem lại cho con sự sống đời đời
Trong vòng tay yêu thương của Ngài con sẽ không bao giờ lạc lõng, con chẳng sợ mình sẽ bị diệt vong!
Xin đừng rời mắt khỏi con và giữ chặt con trong cánh tay của Ngài
Xin cho con luôn biết lắng nghe tiếng Ngài, dù trong đêm tối hiểm nguy, hay khi đời con tràn đầy nắng ấm!
Và, Chúa ơi!
Xin cho đàn chiên của Ngài ngày một thêm đông đảo!
Thứ Hai, 12 tháng 5, 2014
CHÚA GIÊ-SU LÀ CÁNH CỬA DẪN VÀO NHÀ CHA...
“Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ.”
(Ga: 10, 9)
Không biết các bạn đã bằng cách nào để có thể hình dung ra Chúa Cha? Phần tôi, trước đây tôi khó có thể nào mà gần gũi với Chúa Cha, mỗi khi nghĩ đến Chúa, tôi thường sợ hơn là yêu và kính. Tôi không làm điều xấu vì sợ Chúa phạt thì đã đành. Ngay cả làm việc tốt, tôi cũng ép mình ép xác làm chỉ vì sợ. Tôi cứ e ngại rằng nếu không làm thì sẽ bị Chúa phạt. Và vì vậy đời sống đức tin của tôi thật mong manh, mơ hồ tựa như sương khói.
Đó là giai đoạn trước khi tôi trở thành một người mù hoàn toàn. Sau này, khi đã trở thành một người mù, đôi mắt mù lòa khiến tôi không thể nhìn thấy bất cứ ảnh tượng nào về Thiên Chúa, nhưng mỗi khi tôi cần đến Chúa tôi chỉ việc tập trung tư tưởng, thì ngay lập tức gương mặt của Chúa Giê-su hiện ra trong trí não tôi. Lúc thì Chúa Giê-su có ánh mắt buồn rầu như thể trách móc tôi điều gì, lúc thì ánh mắt Chúa nhìn tôi đầy khích lệ, có lúc tôi thấy Người nhìn tôi với ánh mắt đầy cảm thông và âu yếm... tùy theo tâm trạng của tôi khi ấy! Tất nhiên, tôi không cho rằng phải mù lòa mới hình dung ra Chúa Giê-su, đó chỉ là một trong những cách thức của riêng tôi, có thể giúp tôi tiếp cận với Chúa dễ dàng hơn mà thôi! Ban đầu, tôi chỉ tìm cách gặp gỡ Chúa mỗi khi tôi buồn khổ thất vọng, về sau này tôi có thói quen tìm lại hình ảnh gương mặt của Chúa Giê-su để hình dung ra Chúa Cha. Đặc biệt, kể từ khi tôi nhận ra tình yêu bao dung của Chúa Cha qua đoạn Tin Mừng mà người ta quen gọi là câu chuyện “NGƯỜI CHA NHÂN HẬU”, tôi không còn lúc nào cũng sợ bị Chúa phạt nữa... Dần dần, tôi tiến tới làm những việc Chúa dạy vì lòng mến Chúa yêu người, chứ không còn là miễn cưỡng nữa, bạn ạ!
Lời Chúa hôm nay: “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ.”, câu này thật là đúng với những gì xảy ra trong mối quan hệ giữa tôi và Chúa Giê-su. Thật vậy, Chúa Giê-su chính là cửa cho tôi ra vào, để tôi có thể tiến tới gặp gỡ Chúa Cha. Chính nhờ qua cánh cửa là Chúa Giê-su, tôi đã đi vào một đồng cỏ xanh tươi; ở đó, tôi được nuôi dưỡng và tắm mát trong dòng suối kỳ diệu của ơn cứu độ. Cuộc sống mù lòa tưởng chừng như đầy bóng tối của tôi đã được Chúa biến đổi một cách ngoạn mục, Chúa đã dắt dìu tôi qua những thung lũng thâm u mà vẫn tràn trề những âm thanh kỳ thú của tiếng suối chảy róc rách...
Có thể những âm thanh sẽ rợn rùng trong đêm lặng vắng, có thể những âm thanh sẽ đơn điệu đến buồn tẻ của một trưa hè sa mạc... Song le, đối với tôi, tất cả đã tạo nên những giai điệu trầm bổng của một bản tình ca diệu vợi... và chính điều đó đã làm cho cuộc sống của tôi trở nên hấp dẫn! Nhiều nốt nhạc lặng rùng rợn đến nỗi tôi phải bíu chặt lấy Người mục tử, để rồi những nốt nhạc kế tiếp vút lên cao, như tiếng chim lảnh lót của buổi bình minh nắng ấm... khiến cho tôi càng ngày càng đặt trọn niềm tin vào Chúa quan phòng, Ngài luôn ở bên tôi trên suốt cuộc hành trình tôi đã qua và sẽ tới!
Vâng! Chúa Giê-su là cửa, và như Chúa đã nói: “Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu.” Tôi vững tin như thế bạn ạ! Hãy ra vào cửa này đi, để bạn sẽ được cứu, tôi dám cá với bạn điều đó, bởi tôi đã được cứu cho thoát khỏi những lắng lo bế tắc của đời mình một cách thật là ngoạn mục.
Lạy Chúa Giê-su! Chúa là cánh cửa cho con tiến gần Thiên Chúa. Xin cho con luôn biết tìm vào cửa này hơn bất cứ điều gì khác. Xin cho những người thân bạn hữu của con luôn tìm đến Chúa, như tìm đến cánh cửa của một kho báu bất tận. Đặc biệt là những người bạn khuyết tật của con, xin cho họ cảm thấy tự tin đi vào cửa này, để họ có thể tiến vào đồng cỏ xanh tươi, nơi Chúa là mục tử nhân lành của tất cả mọi người chúng con. A-men
(Ga: 10, 9)
Không biết các bạn đã bằng cách nào để có thể hình dung ra Chúa Cha? Phần tôi, trước đây tôi khó có thể nào mà gần gũi với Chúa Cha, mỗi khi nghĩ đến Chúa, tôi thường sợ hơn là yêu và kính. Tôi không làm điều xấu vì sợ Chúa phạt thì đã đành. Ngay cả làm việc tốt, tôi cũng ép mình ép xác làm chỉ vì sợ. Tôi cứ e ngại rằng nếu không làm thì sẽ bị Chúa phạt. Và vì vậy đời sống đức tin của tôi thật mong manh, mơ hồ tựa như sương khói.
Đó là giai đoạn trước khi tôi trở thành một người mù hoàn toàn. Sau này, khi đã trở thành một người mù, đôi mắt mù lòa khiến tôi không thể nhìn thấy bất cứ ảnh tượng nào về Thiên Chúa, nhưng mỗi khi tôi cần đến Chúa tôi chỉ việc tập trung tư tưởng, thì ngay lập tức gương mặt của Chúa Giê-su hiện ra trong trí não tôi. Lúc thì Chúa Giê-su có ánh mắt buồn rầu như thể trách móc tôi điều gì, lúc thì ánh mắt Chúa nhìn tôi đầy khích lệ, có lúc tôi thấy Người nhìn tôi với ánh mắt đầy cảm thông và âu yếm... tùy theo tâm trạng của tôi khi ấy! Tất nhiên, tôi không cho rằng phải mù lòa mới hình dung ra Chúa Giê-su, đó chỉ là một trong những cách thức của riêng tôi, có thể giúp tôi tiếp cận với Chúa dễ dàng hơn mà thôi! Ban đầu, tôi chỉ tìm cách gặp gỡ Chúa mỗi khi tôi buồn khổ thất vọng, về sau này tôi có thói quen tìm lại hình ảnh gương mặt của Chúa Giê-su để hình dung ra Chúa Cha. Đặc biệt, kể từ khi tôi nhận ra tình yêu bao dung của Chúa Cha qua đoạn Tin Mừng mà người ta quen gọi là câu chuyện “NGƯỜI CHA NHÂN HẬU”, tôi không còn lúc nào cũng sợ bị Chúa phạt nữa... Dần dần, tôi tiến tới làm những việc Chúa dạy vì lòng mến Chúa yêu người, chứ không còn là miễn cưỡng nữa, bạn ạ!
Lời Chúa hôm nay: “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ.”, câu này thật là đúng với những gì xảy ra trong mối quan hệ giữa tôi và Chúa Giê-su. Thật vậy, Chúa Giê-su chính là cửa cho tôi ra vào, để tôi có thể tiến tới gặp gỡ Chúa Cha. Chính nhờ qua cánh cửa là Chúa Giê-su, tôi đã đi vào một đồng cỏ xanh tươi; ở đó, tôi được nuôi dưỡng và tắm mát trong dòng suối kỳ diệu của ơn cứu độ. Cuộc sống mù lòa tưởng chừng như đầy bóng tối của tôi đã được Chúa biến đổi một cách ngoạn mục, Chúa đã dắt dìu tôi qua những thung lũng thâm u mà vẫn tràn trề những âm thanh kỳ thú của tiếng suối chảy róc rách...
Có thể những âm thanh sẽ rợn rùng trong đêm lặng vắng, có thể những âm thanh sẽ đơn điệu đến buồn tẻ của một trưa hè sa mạc... Song le, đối với tôi, tất cả đã tạo nên những giai điệu trầm bổng của một bản tình ca diệu vợi... và chính điều đó đã làm cho cuộc sống của tôi trở nên hấp dẫn! Nhiều nốt nhạc lặng rùng rợn đến nỗi tôi phải bíu chặt lấy Người mục tử, để rồi những nốt nhạc kế tiếp vút lên cao, như tiếng chim lảnh lót của buổi bình minh nắng ấm... khiến cho tôi càng ngày càng đặt trọn niềm tin vào Chúa quan phòng, Ngài luôn ở bên tôi trên suốt cuộc hành trình tôi đã qua và sẽ tới!
Vâng! Chúa Giê-su là cửa, và như Chúa đã nói: “Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu.” Tôi vững tin như thế bạn ạ! Hãy ra vào cửa này đi, để bạn sẽ được cứu, tôi dám cá với bạn điều đó, bởi tôi đã được cứu cho thoát khỏi những lắng lo bế tắc của đời mình một cách thật là ngoạn mục.
Lạy Chúa Giê-su! Chúa là cánh cửa cho con tiến gần Thiên Chúa. Xin cho con luôn biết tìm vào cửa này hơn bất cứ điều gì khác. Xin cho những người thân bạn hữu của con luôn tìm đến Chúa, như tìm đến cánh cửa của một kho báu bất tận. Đặc biệt là những người bạn khuyết tật của con, xin cho họ cảm thấy tự tin đi vào cửa này, để họ có thể tiến vào đồng cỏ xanh tươi, nơi Chúa là mục tử nhân lành của tất cả mọi người chúng con. A-men
Chủ Nhật, 11 tháng 5, 2014
VIẾT TẶNG CHÚA GIÊ-SU NHÂN NGÀY LỄ "CHÚA CHIÊN LÀNH"
. Chúa là mục tử nhân lành
Con là chiên lạc loanh quanh sườn đồi
Bao phen con bỏ Chúa rồi
Khiến Người mục tử đứng ngồi không yên...!
Người cho tôi những cơ duyên
Dắt tôi về với đàn chiên của Người.
Tôi về đồng cỏ xanh tươi
Tắm dòng suối mát thảnh thơi mây trời
Tôi như chiên giữa đỉnh đồi
Tung tăng no thỏa bên Người chủ chiên
Dẫu đời còn lắm truân chuyên
Lũng sâu vực thẳm khắp miền thâm u
Thì tôi đã có Giê-su
Người là mục tử cần cù của tôi
Cho tôi luôn ở bên Người
Thương tôi thương đến mây trời phải ghen
Tiếng Người nghe thật thân quen
Lòng chiên vui sướng, lệ hoen mi rồi!
Con là chiên lạc loanh quanh sườn đồi
Bao phen con bỏ Chúa rồi
Khiến Người mục tử đứng ngồi không yên...!
Người cho tôi những cơ duyên
Dắt tôi về với đàn chiên của Người.
Tôi về đồng cỏ xanh tươi
Tắm dòng suối mát thảnh thơi mây trời
Tôi như chiên giữa đỉnh đồi
Tung tăng no thỏa bên Người chủ chiên
Dẫu đời còn lắm truân chuyên
Lũng sâu vực thẳm khắp miền thâm u
Thì tôi đã có Giê-su
Người là mục tử cần cù của tôi
Cho tôi luôn ở bên Người
Thương tôi thương đến mây trời phải ghen
Tiếng Người nghe thật thân quen
Lòng chiên vui sướng, lệ hoen mi rồi!
Thứ Năm, 8 tháng 5, 2014
TÔI ĐÃ "BỊ" CHÚA CHA LÔI KÉO!
“Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết.”
(Ga: 6, 44)
Thật sự, nếu Chúa Cha không “lôi kéo” tôi thì có lẽ bây giờ tôi vẫn còn đang ở xa Chúa Con lắm! Nhìn lại những năm tháng đã qua, quả thực là Chúa Cha đã lôi kéo tôi theo một phương cách riêng của Ngài, nên tôi mới có thể đến được với Chúa Giê-su như hiện nay, bạn ạ!
Tôi nhớ những ngày tháng mới làm quen với cuộc sống mù lòa, những ngày ấy đối với tôi thật dài thật đơn điệu. Thời gian đó, mọi người đi làm hết, chỉ còn mình tôi trong căn nhà lặng ngắt. Trưa đến, mới có người về chuẩn bị thức ăn cho tôi, rồi lại vội vã ra đi. Có những lúc tôi thèm nghe giọng nói của một con người, đến nỗi tôi đã bấm số điện thoại của một người quen, để rồi cuối cùng lại hủy cuộc gọi, vì ngại rằng người ấy đang bận việc gì chăng. Song le, nỗi trống trải khiến tôi lại nhấc ống nghe lên, bấm đại một số điện thoại ngẫu nhiên nào đó, chỉ để nghe người ta nói cộc lốc: “Cô lộn số rồi!”, chừng ấy thôi cũng đủ làm tôi bớt trống trải. Buồn quá không biết làm gì thì lại lấy chuỗi hạt ra lần hạt, nhưng tâm trí cứ phiêu diêu tận đẩu tận đâu! Ngày tôi chưa bị mù, có bao giờ tôi tự mình lần hạt như vậy đâu. Thường là tôi đọc kinh chung với người lớn trong gia đình, cốt cho ông bà cha mẹ vui lòng mà thôi! Mỗi buổi chiều bố tôi ngồi đọc sách đạo đức cho tôi nghe, rồi ông lấy tràng hạt ra, hết đọc những chuỗi kinh Mân Côi lại đến kinh Lòng thương xót Chúa. Dường như ông cố tình làm như thế mà không hỏi ý tôi có muốn hay không, để buộc tôi phải cùng đọc kinh chung với ông vậy... Ngoài những giờ phút đó, tôi thường chìm ngập vào nỗi buồn và nước mắt. Tôi khóc với Chúa Giê-su bị đóng đinh, khóc với Mẹ Maria sầu bi, chỉ vì họ tuyệt đối im lặng và không làm tôi phải bực bội vì những lời khuyên ngớ ngẩn... Tuy nhiên, cũng chỉ có thế, tôi không kiếm tìm gì hơn ở Chúa và Mẹ, mà lại thả hồn đi hoang tìm những giải pháp cho cuộc đời mình. Biết bao phương trình tôi đã đặt ra và tìm cách giải mã cho nó, nhưng phương trình nào rồi cũng vô nghiệm đối với tôi! Gia đình tôi chẳng ai biết trong cái đầu của tôi suy nghĩ gì, bởi tôi chẳng bao giờ thổ lộ những trăn trở của mình cho bất cứ ai ngoài Chúa Giê-su và Mẹ Maria!
Chúa Cha đã “lôi kéo” tôi không theo nghĩa người ta thường hiểu, Ngài đã “lôi kéo” tôi bằng cách tạo ra cho tôi những cơ hội, mà những cơ hội Ngài trao cho tôi cũng rất khác người!
Tôi nhớ những ngày bập bẹ tập đọc tập viết chữ nổi, lại cũng đầy khó khăn cản trở cho tôi, so với những người đồng cảnh ngộ. Vì tôi không những bị mù mà còn biết bao bệnh tật, tay chân thì tê dại cảm giác kém, cột sống thì thoái hóa,... những cái đó đã khiến tôi tưởng chừng không thể tiếp cận được với sách vở học hành! Rồi tôi cũng tìm ra được những cách để vượt qua thử thách đó! Khi đã biết đọc chữ nổi, tôi hăm hở đi hỏi mượn sách để đọc, hy vọng mình sẽ được tăng thêm kiến thức, vì nghĩ rằng mình đã lạc hậu mất cả chục năm... Nhưng, hỡi ôi! Sách chữ nổi thật là nghèo nàn, tôi đành phải đọc sách toán của các lớp tiểu học như một bài luyện tập đọc vậy. Đọc hết mấy cuốn sách toán, tôi miễn cưỡng lấy Thánh kinh ra đọc! Có lẽ bố mẹ tôi đã rất ngạc nhiên và cũng rất vui mừng nữa, vì cho tới thời điểm đó, tôi chưa hề bao giờ đặt tay lên bất cứ một cuốn Thánh kinh nào, bạn ạ.
Tôi nhớ ngày thầy tôi giới thiệu tôi lên TTMV của TGP Sài Gòn để học viết tin... Tôi đã hăm hở lên đường dẫu biết rằng mình học cũng chẳng làm được gì, chỉ là để thỏa mãn cái mộng làm phóng viên khi hồi còn bé! Nào ngờ ngay buổi đầu tiên, tôi phải học viết blog, một cái gì đó thật xa lạ đối với tôi. Vì lớp học viết tin này người ta đã qua một khóa rồi, phần viết phóng sự sẽ được học xen kẽ với việc học viết blog. Vị linh mục dạy viết blog chắc cũng chưa có sự chuẩn bị giáo án để dạy người mù, tôi ngồi nghe như vịt nghe sấm... Chưa hết đâu bạn ơi! Cuối buổi học, vị linh mục giảng viên ra cho chúng tôi một bài tập mà mới nghe qua tôi đã phát hoảng. Ngài yêu cầu các học viên: Mỗi ngày, chọn một câu Thánh kinh, rồi viết những suy nghĩ của mình để đăng lên blog, tôi hiểu bài tập này không phải chỉ ngày một ngày hai... Tối hôm ấy tôi trở về nhà, bắt tay vào việc viết blog với một lô một lốc những trở ngại. Computer của tôi bị hư ngay sau khi tôi vừa kết nối với mạng internet. Ngày hôm sau thợ đến kiểm tra máy rồi kết luận, máy của tôi bị hư phần cứng, bộ phận hư này phải gởi lên tận công ty xử lý, không biết công ty sẽ giải quyết sớm hay muộn... Nhưng tôi vốn đã không làm thì thôi, đã làm thì phải làm theo đúng với mọi người. Tôi đến nhà một người bạn mù, mượn máy của anh ta, để sống chết làm cho được bài tập mà cha Phê-rô Hiền(giảng viên của lớp viết blog) đã giao phó. Trong những ngày ấy, tôi nhiều lần tự hỏi, không biết tôi sẽ duy trì được việc viết blog này đến bao lâu, thế mà cũng đã gần bốn năm... Tất nhiên tôi không thể nào quên những sự giúp đỡ nhiệt tình mà bạn bè đã dành cho tôi trong những ngày tôi tập tễnh thiết kế trang blog của mình, và tôi tin tất cả những con người dễ thương đó là do Chúa phái tới giúp tôi, bạn ạ!
Tôi đã đến với Chúa bằng những nẻo đường quanh co khúc khủyu như thế đó! Ngay cả việc tôi ngồi đây viết những dòng chữ này gởi tới bạn, cũng là một sự “lôi kéo” của Chúa Cha nữa. Thử thách càng nhiều, đức tin của tôi càng được nung nấu, vì sau mỗi chặng đường thử thách, tôi nhận ra sự hiện diện của Chúa Giê-su trong cuộc đời mình một cách rõ nét hơn. Đọc qua câu Thánh kinh trên đây, tôi đã bật cười khúc khích một mình, vì đúng là Chúa Cha đã lôi kéo tôi, chứ tôi đâu có chủ động đi tìm Ngài! Bây giờ thì tôi đã biết tìm đến với Chúa mỗi ngày, và tin rằng, chắc chắn Chúa Giê-su sẽ cho tôi sống lại trong ngày sau hết, để được cùng với Người ca tụng Chúa Cha trên cõi trời vinh hiển đến muôn đời. A-men
(Ga: 6, 44)
Thật sự, nếu Chúa Cha không “lôi kéo” tôi thì có lẽ bây giờ tôi vẫn còn đang ở xa Chúa Con lắm! Nhìn lại những năm tháng đã qua, quả thực là Chúa Cha đã lôi kéo tôi theo một phương cách riêng của Ngài, nên tôi mới có thể đến được với Chúa Giê-su như hiện nay, bạn ạ!
Tôi nhớ những ngày tháng mới làm quen với cuộc sống mù lòa, những ngày ấy đối với tôi thật dài thật đơn điệu. Thời gian đó, mọi người đi làm hết, chỉ còn mình tôi trong căn nhà lặng ngắt. Trưa đến, mới có người về chuẩn bị thức ăn cho tôi, rồi lại vội vã ra đi. Có những lúc tôi thèm nghe giọng nói của một con người, đến nỗi tôi đã bấm số điện thoại của một người quen, để rồi cuối cùng lại hủy cuộc gọi, vì ngại rằng người ấy đang bận việc gì chăng. Song le, nỗi trống trải khiến tôi lại nhấc ống nghe lên, bấm đại một số điện thoại ngẫu nhiên nào đó, chỉ để nghe người ta nói cộc lốc: “Cô lộn số rồi!”, chừng ấy thôi cũng đủ làm tôi bớt trống trải. Buồn quá không biết làm gì thì lại lấy chuỗi hạt ra lần hạt, nhưng tâm trí cứ phiêu diêu tận đẩu tận đâu! Ngày tôi chưa bị mù, có bao giờ tôi tự mình lần hạt như vậy đâu. Thường là tôi đọc kinh chung với người lớn trong gia đình, cốt cho ông bà cha mẹ vui lòng mà thôi! Mỗi buổi chiều bố tôi ngồi đọc sách đạo đức cho tôi nghe, rồi ông lấy tràng hạt ra, hết đọc những chuỗi kinh Mân Côi lại đến kinh Lòng thương xót Chúa. Dường như ông cố tình làm như thế mà không hỏi ý tôi có muốn hay không, để buộc tôi phải cùng đọc kinh chung với ông vậy... Ngoài những giờ phút đó, tôi thường chìm ngập vào nỗi buồn và nước mắt. Tôi khóc với Chúa Giê-su bị đóng đinh, khóc với Mẹ Maria sầu bi, chỉ vì họ tuyệt đối im lặng và không làm tôi phải bực bội vì những lời khuyên ngớ ngẩn... Tuy nhiên, cũng chỉ có thế, tôi không kiếm tìm gì hơn ở Chúa và Mẹ, mà lại thả hồn đi hoang tìm những giải pháp cho cuộc đời mình. Biết bao phương trình tôi đã đặt ra và tìm cách giải mã cho nó, nhưng phương trình nào rồi cũng vô nghiệm đối với tôi! Gia đình tôi chẳng ai biết trong cái đầu của tôi suy nghĩ gì, bởi tôi chẳng bao giờ thổ lộ những trăn trở của mình cho bất cứ ai ngoài Chúa Giê-su và Mẹ Maria!
Chúa Cha đã “lôi kéo” tôi không theo nghĩa người ta thường hiểu, Ngài đã “lôi kéo” tôi bằng cách tạo ra cho tôi những cơ hội, mà những cơ hội Ngài trao cho tôi cũng rất khác người!
Tôi nhớ những ngày bập bẹ tập đọc tập viết chữ nổi, lại cũng đầy khó khăn cản trở cho tôi, so với những người đồng cảnh ngộ. Vì tôi không những bị mù mà còn biết bao bệnh tật, tay chân thì tê dại cảm giác kém, cột sống thì thoái hóa,... những cái đó đã khiến tôi tưởng chừng không thể tiếp cận được với sách vở học hành! Rồi tôi cũng tìm ra được những cách để vượt qua thử thách đó! Khi đã biết đọc chữ nổi, tôi hăm hở đi hỏi mượn sách để đọc, hy vọng mình sẽ được tăng thêm kiến thức, vì nghĩ rằng mình đã lạc hậu mất cả chục năm... Nhưng, hỡi ôi! Sách chữ nổi thật là nghèo nàn, tôi đành phải đọc sách toán của các lớp tiểu học như một bài luyện tập đọc vậy. Đọc hết mấy cuốn sách toán, tôi miễn cưỡng lấy Thánh kinh ra đọc! Có lẽ bố mẹ tôi đã rất ngạc nhiên và cũng rất vui mừng nữa, vì cho tới thời điểm đó, tôi chưa hề bao giờ đặt tay lên bất cứ một cuốn Thánh kinh nào, bạn ạ.
Tôi nhớ ngày thầy tôi giới thiệu tôi lên TTMV của TGP Sài Gòn để học viết tin... Tôi đã hăm hở lên đường dẫu biết rằng mình học cũng chẳng làm được gì, chỉ là để thỏa mãn cái mộng làm phóng viên khi hồi còn bé! Nào ngờ ngay buổi đầu tiên, tôi phải học viết blog, một cái gì đó thật xa lạ đối với tôi. Vì lớp học viết tin này người ta đã qua một khóa rồi, phần viết phóng sự sẽ được học xen kẽ với việc học viết blog. Vị linh mục dạy viết blog chắc cũng chưa có sự chuẩn bị giáo án để dạy người mù, tôi ngồi nghe như vịt nghe sấm... Chưa hết đâu bạn ơi! Cuối buổi học, vị linh mục giảng viên ra cho chúng tôi một bài tập mà mới nghe qua tôi đã phát hoảng. Ngài yêu cầu các học viên: Mỗi ngày, chọn một câu Thánh kinh, rồi viết những suy nghĩ của mình để đăng lên blog, tôi hiểu bài tập này không phải chỉ ngày một ngày hai... Tối hôm ấy tôi trở về nhà, bắt tay vào việc viết blog với một lô một lốc những trở ngại. Computer của tôi bị hư ngay sau khi tôi vừa kết nối với mạng internet. Ngày hôm sau thợ đến kiểm tra máy rồi kết luận, máy của tôi bị hư phần cứng, bộ phận hư này phải gởi lên tận công ty xử lý, không biết công ty sẽ giải quyết sớm hay muộn... Nhưng tôi vốn đã không làm thì thôi, đã làm thì phải làm theo đúng với mọi người. Tôi đến nhà một người bạn mù, mượn máy của anh ta, để sống chết làm cho được bài tập mà cha Phê-rô Hiền(giảng viên của lớp viết blog) đã giao phó. Trong những ngày ấy, tôi nhiều lần tự hỏi, không biết tôi sẽ duy trì được việc viết blog này đến bao lâu, thế mà cũng đã gần bốn năm... Tất nhiên tôi không thể nào quên những sự giúp đỡ nhiệt tình mà bạn bè đã dành cho tôi trong những ngày tôi tập tễnh thiết kế trang blog của mình, và tôi tin tất cả những con người dễ thương đó là do Chúa phái tới giúp tôi, bạn ạ!
Tôi đã đến với Chúa bằng những nẻo đường quanh co khúc khủyu như thế đó! Ngay cả việc tôi ngồi đây viết những dòng chữ này gởi tới bạn, cũng là một sự “lôi kéo” của Chúa Cha nữa. Thử thách càng nhiều, đức tin của tôi càng được nung nấu, vì sau mỗi chặng đường thử thách, tôi nhận ra sự hiện diện của Chúa Giê-su trong cuộc đời mình một cách rõ nét hơn. Đọc qua câu Thánh kinh trên đây, tôi đã bật cười khúc khích một mình, vì đúng là Chúa Cha đã lôi kéo tôi, chứ tôi đâu có chủ động đi tìm Ngài! Bây giờ thì tôi đã biết tìm đến với Chúa mỗi ngày, và tin rằng, chắc chắn Chúa Giê-su sẽ cho tôi sống lại trong ngày sau hết, để được cùng với Người ca tụng Chúa Cha trên cõi trời vinh hiển đến muôn đời. A-men
Thứ Tư, 7 tháng 5, 2014
TÌM ĐẾN VỚI CHÚA, TÌM ĐẾN VỚI NHAU!
“Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài, vì tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi.”
(Ga: 6, 37-38)
Chúa nói “Tất cả những người Chúa Cha đã ban cho tôi đều sẽ đến với tôi...” ư? Cuộc sống đang diễn ra chung quanh con, cho con thấy rằng thật sự không phải thế! Người ta cứ than phiền về những nỗi bất ổn, những nỗi cô đơn trống vắng, những khắc khoải dằn vặt mà người ta phải gánh chịu... song le, nếu như con phân tích cho họ thấy đâu là nguồn gốc của những nỗi bất ổn, sự cô đơn và khắc khoải đó... và rồi chỉ ra cho họ nơi họ có thể tìm được sự bình an thanh thản đích thực, thì nhiều người trong số họ lại lảng sang chuyện khác, không muốn nghe con nói về Chúa nữa! Khi con nói với họ rằng “những lúc con cảm thấy bất an hoặc cô đơn khắc khoải con đều tìm đến tâm sự với Chúa”, thì họ cũng tin đấy. Tuy nhiên, không phải ai cũng nghe theo lời khuyên của con, con thật tiếc cho họ. Bởi họ không tìm đến Chúa mà lại mong tìm được an ủi ở một con người nào đó cũng mỏng giòn yếu đuối như họ... để rồi họ cứ phải loay hoay chìm nổi trong cái cuộc đời mà họ gọi là cái bể khổ này một cách trầm luân.
Một tối nọ, chẳng hiểu tại sao con bị thôi thúc phải gọi điện thoại cho một người bạn mắt kém. Khi người bạn ở đầu dây bên kia, nhận ra giọng nói của con, cô ta mừng rỡ:
-Em đang rất buồn, muốn gọi cho chị, thì chị lại gọi cho em. Không hiểu sao mỗi lần em buồn, định gọi cho chị thì lại xảy ra như vậy!
Con nghĩ, có lẽ chính là Chúa đã thúc giục con gọi điện cho người bạn này. Và, con liền kể cho bạn con nghe về điều mà con đang suy nghĩ đó. Tối hôm ấy, sau khi nghe cô bạn gái kể lể về những khắc khoải đang đè nặng tâm trí cô, con đã kể cho cô nghe về câu chuyện trong sách Tô-bi-a. Câu chuyện thuật lại những gì xảy ra với Tô-bi-a và Xa-ra. Đặc biệt, con đã kể cho cô ấy nghe về lời nguyện của ông Tô-bít( cha của Tô-bi-a) và lời nguyện của Xa-ra, cả hai đồng thời được thốt lên, từ hai tâm hồn đang đau khổ và từ hai nơi cách xa nhau, nhưng đều đã được Chúa nghe thấu và nhậm lời. Vì cô bạn của con là một Phật tử, nên con phải giải thích cho cô về chuyện Chúa đã thúc giục con gọi điện cho cô để chia sẻ nỗi buồn với cô. Con nói: “Chúa biết rõ và đã sai chị đến với em đó!”. Nghe con giải thích như vậy, người bạn gái khẳng định là cô ấy cũng tin như con, Chúa ạ! Đêm ấy chẳng hiểu sao con đã hứng khởi mà say mê kể cho cô bạn ấy toàn chuyện Kinh Thánh, đến khi giật mình nhận ra mình đã nói quá nhiều thì cũng đã qua ngày mới. Con tỏ ý ngại rằng đã làm cô bạn nhàm chán, thì cô ấy lại nói: “Không đâu! Hồi nãy em buồn lắm, bây giờ thì nỗi buồn của em đã vơi đi nhiều rồi!”. Đêm ấy, con ngủ một giấc thật ngon, Chúa ạ!
vì Chúa đã nói: “tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi.”,con cũng xin theo chân Chúa mà cố làm những gì Chúa muốn hơn là làm những gì mình muốn... Thế nhưng, đâu phải lúc nào con cũng làm theo ý Chúa muốn một cách trọn vẹn đâu! Thỉnh thoảng, ý Chúa muốn và ý con muốn vẫn còn ngổn ngang lẫn lộn. Và thế là con lại giống như những kẻ muốn lảng tránh Chúa, chẳng muốn nghe Chúa nói, mà chỉ muốn đi tìm những gì thỏa mãn ý riêng của mình...
Lạy Chúa! Xin cho con luôn biết lắng nghe ý Chúa bằng cách luôn tìm đến Chúa, để con luôn biết làm theo ý Chúa Cha một cách trọn vẹn. Xin cho tất cả mọi người trong chúng con đều biết tìm đến Chúa, để được Chúa dẫn dắt và ủi an mọi nơi và mọi lúc trong cuộc đời của mỗi người chúng con, Chúa nhé!
(Ga: 6, 37-38)
Chúa nói “Tất cả những người Chúa Cha đã ban cho tôi đều sẽ đến với tôi...” ư? Cuộc sống đang diễn ra chung quanh con, cho con thấy rằng thật sự không phải thế! Người ta cứ than phiền về những nỗi bất ổn, những nỗi cô đơn trống vắng, những khắc khoải dằn vặt mà người ta phải gánh chịu... song le, nếu như con phân tích cho họ thấy đâu là nguồn gốc của những nỗi bất ổn, sự cô đơn và khắc khoải đó... và rồi chỉ ra cho họ nơi họ có thể tìm được sự bình an thanh thản đích thực, thì nhiều người trong số họ lại lảng sang chuyện khác, không muốn nghe con nói về Chúa nữa! Khi con nói với họ rằng “những lúc con cảm thấy bất an hoặc cô đơn khắc khoải con đều tìm đến tâm sự với Chúa”, thì họ cũng tin đấy. Tuy nhiên, không phải ai cũng nghe theo lời khuyên của con, con thật tiếc cho họ. Bởi họ không tìm đến Chúa mà lại mong tìm được an ủi ở một con người nào đó cũng mỏng giòn yếu đuối như họ... để rồi họ cứ phải loay hoay chìm nổi trong cái cuộc đời mà họ gọi là cái bể khổ này một cách trầm luân.
Một tối nọ, chẳng hiểu tại sao con bị thôi thúc phải gọi điện thoại cho một người bạn mắt kém. Khi người bạn ở đầu dây bên kia, nhận ra giọng nói của con, cô ta mừng rỡ:
-Em đang rất buồn, muốn gọi cho chị, thì chị lại gọi cho em. Không hiểu sao mỗi lần em buồn, định gọi cho chị thì lại xảy ra như vậy!
Con nghĩ, có lẽ chính là Chúa đã thúc giục con gọi điện cho người bạn này. Và, con liền kể cho bạn con nghe về điều mà con đang suy nghĩ đó. Tối hôm ấy, sau khi nghe cô bạn gái kể lể về những khắc khoải đang đè nặng tâm trí cô, con đã kể cho cô nghe về câu chuyện trong sách Tô-bi-a. Câu chuyện thuật lại những gì xảy ra với Tô-bi-a và Xa-ra. Đặc biệt, con đã kể cho cô ấy nghe về lời nguyện của ông Tô-bít( cha của Tô-bi-a) và lời nguyện của Xa-ra, cả hai đồng thời được thốt lên, từ hai tâm hồn đang đau khổ và từ hai nơi cách xa nhau, nhưng đều đã được Chúa nghe thấu và nhậm lời. Vì cô bạn của con là một Phật tử, nên con phải giải thích cho cô về chuyện Chúa đã thúc giục con gọi điện cho cô để chia sẻ nỗi buồn với cô. Con nói: “Chúa biết rõ và đã sai chị đến với em đó!”. Nghe con giải thích như vậy, người bạn gái khẳng định là cô ấy cũng tin như con, Chúa ạ! Đêm ấy chẳng hiểu sao con đã hứng khởi mà say mê kể cho cô bạn ấy toàn chuyện Kinh Thánh, đến khi giật mình nhận ra mình đã nói quá nhiều thì cũng đã qua ngày mới. Con tỏ ý ngại rằng đã làm cô bạn nhàm chán, thì cô ấy lại nói: “Không đâu! Hồi nãy em buồn lắm, bây giờ thì nỗi buồn của em đã vơi đi nhiều rồi!”. Đêm ấy, con ngủ một giấc thật ngon, Chúa ạ!
vì Chúa đã nói: “tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi.”,con cũng xin theo chân Chúa mà cố làm những gì Chúa muốn hơn là làm những gì mình muốn... Thế nhưng, đâu phải lúc nào con cũng làm theo ý Chúa muốn một cách trọn vẹn đâu! Thỉnh thoảng, ý Chúa muốn và ý con muốn vẫn còn ngổn ngang lẫn lộn. Và thế là con lại giống như những kẻ muốn lảng tránh Chúa, chẳng muốn nghe Chúa nói, mà chỉ muốn đi tìm những gì thỏa mãn ý riêng của mình...
Lạy Chúa! Xin cho con luôn biết lắng nghe ý Chúa bằng cách luôn tìm đến Chúa, để con luôn biết làm theo ý Chúa Cha một cách trọn vẹn. Xin cho tất cả mọi người trong chúng con đều biết tìm đến Chúa, để được Chúa dẫn dắt và ủi an mọi nơi và mọi lúc trong cuộc đời của mỗi người chúng con, Chúa nhé!
Thứ Ba, 6 tháng 5, 2014
TÔI CHẲNG CÒN PHẢI ĐÓI, CŨNG KHÔNG CÒN PHẢI KHÁT!
Đức Giê-su bảo họ : "Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói ; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ !”
(Ga: 6, 35)
Trước đây, trong một quãng đời kể cũng khá dài, tôi thường chỉ rước Mình Thánh Chúa độ một vài lần sau khi nhận lãnh phép hòa giải rồi thôi. Cảm giác con người mình nhiều tội lỗi, dù chẳng phải là tội trọng, đã ngăn cản tôi không dám rước Mình Thánh Chúa vào lòng, cho đến khi tôi lãnh phép hòa giải lần kế tiếp. ?Ngặt một nỗi là tôi có tính lười biếng, lần lữa việc đi xưng tội, thế nên tôi thường xuyên rơi vào trạng thái trốn tìm với Chúa Giê-su Thánh Thể. Nhiều lúc tôi đã chán nản buông xuôi, cho rằng mình đã lạm dụng lòng tha thứ của Chúa quá nhiều, khi mà cứ đi xưng tội rồi lại phạm tội. Trong một lần đi xưng tội, tôi đã bày tỏ nỗi niềm trăn trở đó của mình cho vị linh mục ngồi tòa; khi vừa nghe tôi nói xong, vị linh mục đã kêu lên xuýt xoa, và ngài
đã khuyên tôi không nên ngã lòng cậy trông vào lòng từ bi thương xót của Chúa. Nhờ lời khuyên ấy, tôi mới lấy lại được sự quân bình trở lại. Tuy vậy, tôi vẫn giữ thói quen như trước, nghĩa là, rất ít khi rước Mình Thánh Chúa. Chính vì vậy, quãng đời đó của tôi bề ngoài có vẻ ổn thỏa, song thật ra nó rất bôn ba. Không phải tôi bôn ba cực khổ vì đói khát vật chất, mà là sự bôn ba kiếm tìm một điều gì đó tôi không sao nắm bắt được. Bây giờ thì tôi đã hiểu, dạo ấy tôi đói khát điều gì rồi, bạn ạ!
Lời Chúa hôm nay cho tôi nhận ra rằng, suốt một quãng đời dài của mình, tôi đã bỏ mặc cho linh hồn mình đói khát”Bánh trường sinh”, tôi đã chẳng lo đi kiếm tìm theo hướng ấy, mà cứ mải miết đi tìm những lương thực dễ hư nát và nó chỉ có thể thỏa mãn mình trong chốc lát mà thôi! Nhưng, Chúa Giê-su không ở yên trong nhà chầu chờ tôi đến tìm Ngài! Chúa đã chạy đi tìm tôi. Có lẽ Ngài đã rất bôn ba trong cuộc kiếm tìm này, vì tôi là một đứa con gái bướng bỉnh và ươn lười trong nhiều năm tháng. . Chính Ngài đã dẫn dắt cuộc đời tôi qua những nẻo đường đầy phiêu lưu và kỳ thú, khiến cho tôi bị hấp dẫn bởi sự phiêu lưu mạo hiểm đó đến nỗi con người tôi thay đổi hồi nào mà tôi cũng không hay biết. Từ một đứa con gái lười biếng đọc Thánh kinh, tôi trở thành người say mê kể chuyện Thánh kinh cho những người chung quanh. Từ một người lười biếng rước Mình Thánh Chúa, tôi trở nên siêng năng rước lễ mỗi ngày, dù rằng con người đầy tội lỗi trong tôi chưa phải là đã chết đi một cách vĩnh viễn... Chẳng biết bằng cách nào và tự khi nào, Chúa đã đánh thức tôi mỗi sáng sớm và cho tôi nói năng như người môn đệ của Chúa... Tôi tự biết mình vẫn còn nhiều sân si tội lỗi, nhưng tôi vững tin vào lòng từ bi thương xót của Chúa. Và tôi đã mạnh dạn dám rước Mình Thánh Chúa mỗi ngày, sau khi đã trao phó con người lôi thôi lếch thếch bệnh hoạn của mình cho Chúa, với một niềm tin chắc chắn rằng Chúa Giê-su Thánh Thể sẽ chữa lành mọi vết thương trong tôi. Kể từ đó, tôi không còn phải bôn ba kiếm tìm chi khác nữa, ngoài việc tìm đến với Thánh Thể Chúa và Lời Chúa mỗi ngày!
Lạy Chúa Ki-tô Phục sinh! Hôm nay con thành thật viết ra đây những tâm tư trăn trở mà con đã một thời phải đói khát vì đời con thiếu vắng Chúa, với hy vọng rằng nó sẽ giúp cho những người đang ở trong tình trạng chơi vơi tìm kiếm Chúa như con trước đây sẽ nhận ra Chúa chính là “Bánh trường sinh” của đời họ, để họ sẽ không còn phải đói khát nữa!
(Ga: 6, 35)
Trước đây, trong một quãng đời kể cũng khá dài, tôi thường chỉ rước Mình Thánh Chúa độ một vài lần sau khi nhận lãnh phép hòa giải rồi thôi. Cảm giác con người mình nhiều tội lỗi, dù chẳng phải là tội trọng, đã ngăn cản tôi không dám rước Mình Thánh Chúa vào lòng, cho đến khi tôi lãnh phép hòa giải lần kế tiếp. ?Ngặt một nỗi là tôi có tính lười biếng, lần lữa việc đi xưng tội, thế nên tôi thường xuyên rơi vào trạng thái trốn tìm với Chúa Giê-su Thánh Thể. Nhiều lúc tôi đã chán nản buông xuôi, cho rằng mình đã lạm dụng lòng tha thứ của Chúa quá nhiều, khi mà cứ đi xưng tội rồi lại phạm tội. Trong một lần đi xưng tội, tôi đã bày tỏ nỗi niềm trăn trở đó của mình cho vị linh mục ngồi tòa; khi vừa nghe tôi nói xong, vị linh mục đã kêu lên xuýt xoa, và ngài
đã khuyên tôi không nên ngã lòng cậy trông vào lòng từ bi thương xót của Chúa. Nhờ lời khuyên ấy, tôi mới lấy lại được sự quân bình trở lại. Tuy vậy, tôi vẫn giữ thói quen như trước, nghĩa là, rất ít khi rước Mình Thánh Chúa. Chính vì vậy, quãng đời đó của tôi bề ngoài có vẻ ổn thỏa, song thật ra nó rất bôn ba. Không phải tôi bôn ba cực khổ vì đói khát vật chất, mà là sự bôn ba kiếm tìm một điều gì đó tôi không sao nắm bắt được. Bây giờ thì tôi đã hiểu, dạo ấy tôi đói khát điều gì rồi, bạn ạ!
Lời Chúa hôm nay cho tôi nhận ra rằng, suốt một quãng đời dài của mình, tôi đã bỏ mặc cho linh hồn mình đói khát”Bánh trường sinh”, tôi đã chẳng lo đi kiếm tìm theo hướng ấy, mà cứ mải miết đi tìm những lương thực dễ hư nát và nó chỉ có thể thỏa mãn mình trong chốc lát mà thôi! Nhưng, Chúa Giê-su không ở yên trong nhà chầu chờ tôi đến tìm Ngài! Chúa đã chạy đi tìm tôi. Có lẽ Ngài đã rất bôn ba trong cuộc kiếm tìm này, vì tôi là một đứa con gái bướng bỉnh và ươn lười trong nhiều năm tháng. . Chính Ngài đã dẫn dắt cuộc đời tôi qua những nẻo đường đầy phiêu lưu và kỳ thú, khiến cho tôi bị hấp dẫn bởi sự phiêu lưu mạo hiểm đó đến nỗi con người tôi thay đổi hồi nào mà tôi cũng không hay biết. Từ một đứa con gái lười biếng đọc Thánh kinh, tôi trở thành người say mê kể chuyện Thánh kinh cho những người chung quanh. Từ một người lười biếng rước Mình Thánh Chúa, tôi trở nên siêng năng rước lễ mỗi ngày, dù rằng con người đầy tội lỗi trong tôi chưa phải là đã chết đi một cách vĩnh viễn... Chẳng biết bằng cách nào và tự khi nào, Chúa đã đánh thức tôi mỗi sáng sớm và cho tôi nói năng như người môn đệ của Chúa... Tôi tự biết mình vẫn còn nhiều sân si tội lỗi, nhưng tôi vững tin vào lòng từ bi thương xót của Chúa. Và tôi đã mạnh dạn dám rước Mình Thánh Chúa mỗi ngày, sau khi đã trao phó con người lôi thôi lếch thếch bệnh hoạn của mình cho Chúa, với một niềm tin chắc chắn rằng Chúa Giê-su Thánh Thể sẽ chữa lành mọi vết thương trong tôi. Kể từ đó, tôi không còn phải bôn ba kiếm tìm chi khác nữa, ngoài việc tìm đến với Thánh Thể Chúa và Lời Chúa mỗi ngày!
Lạy Chúa Ki-tô Phục sinh! Hôm nay con thành thật viết ra đây những tâm tư trăn trở mà con đã một thời phải đói khát vì đời con thiếu vắng Chúa, với hy vọng rằng nó sẽ giúp cho những người đang ở trong tình trạng chơi vơi tìm kiếm Chúa như con trước đây sẽ nhận ra Chúa chính là “Bánh trường sinh” của đời họ, để họ sẽ không còn phải đói khát nữa!
Thứ Năm, 1 tháng 5, 2014
TÂM TÌNH THÁNG NĂM
Sáng nay mùa hoa mở
Con trăn trở trong lòng
Tìm hoa thơm dâng Mẹ
Nhưng tìm hoài chẳng thấy
Bởi tim con khô cằn!
Nước mắt mằn mặn rơi
Hoa lòng con chơi vơi
Sầu dâng màu tím ngắt
Đời mưa nắng lắt lay
Chắp tay con khẩn cầu.
Mẹ như hương đầu mùa
Cho con say tình mến.
Con xin làm ngọn nến
Rồi tiêu hao mỗi ngày
Tựa hồ hương hoa bay!
Này là đôi tay con
Mười ngón tay chai sần
Xin lần chuỗi Mân Côi
Góp từng nụ hoa nhỏ
Gởi Mẹ trọn tâm tình!
Mẹ ơi, Mẹ! Con dâng...
Này là lời “Xin vâng!”
Này là câu chúc tụng
Này là tình con thảo
Xin Mẹ mãi bảo ban!
1/5/2014
Vũ Thủy
Con trăn trở trong lòng
Tìm hoa thơm dâng Mẹ
Nhưng tìm hoài chẳng thấy
Bởi tim con khô cằn!
Nước mắt mằn mặn rơi
Hoa lòng con chơi vơi
Sầu dâng màu tím ngắt
Đời mưa nắng lắt lay
Chắp tay con khẩn cầu.
Mẹ như hương đầu mùa
Cho con say tình mến.
Con xin làm ngọn nến
Rồi tiêu hao mỗi ngày
Tựa hồ hương hoa bay!
Này là đôi tay con
Mười ngón tay chai sần
Xin lần chuỗi Mân Côi
Góp từng nụ hoa nhỏ
Gởi Mẹ trọn tâm tình!
Mẹ ơi, Mẹ! Con dâng...
Này là lời “Xin vâng!”
Này là câu chúc tụng
Này là tình con thảo
Xin Mẹ mãi bảo ban!
1/5/2014
Vũ Thủy
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)